Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 18/04/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 47/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 4 năm 2018, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 758/2017/TLST-HNGĐ ngày 05-7-2017 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 28-02-2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 93/2018/QĐST-HNGĐ ngày 28-3-2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Văn Thị L, sinh năm: 1967

Địa chỉ: E5/31 ấp 5, xã M, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Bà L có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm: 1965

Địa chỉ: E5/31 ấp 5, xã M, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Ông B vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 21-6-2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án - Nguyên đơn bà Văn Thị L trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn B tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1988, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình Lợi, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 15, quyển số 01 cấp ngày 23-4-1988. Trong quá trình chung sống, ban đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến khoảng năm 2015 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng chung sống với nhau không còn hạnh phúc. Ông B thường hay nhậu nhẹt về kiếm chuyện, dẫn đến vợ chồng thường xuyên gây gổ; ông B còn đánh đập bà. Từ năm 2015 đến nay, vợ chồng sống chung nhà nhưng đã không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau; mạnh ai nấy sống. Nay nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông B.

Về con chung, bà và ông B chung sống có hai con chung tên là Nguyễn Văn Hoàng Bá N, sinh ngày 15-10-1990 và Nguyễn Thị Hồng T, sinh ngày 10-9- 1992, tất cả đã thành niên.

Về tài sản chung, bà xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, bà xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, thông qua Văn phòng thừa phát lại huyện Bình Chánh, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nhưng bị đơn ông Nguyễn Văn B vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án và cũng không thể hiện ý kiến của mình bằng bất cứ văn bản nào.

- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày, tranh luận của các bên đương sự thì xét thấy thời hạn chuẩn bị xét xử chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

 [2] Nguyên đơn bà Văn Thị L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn ông Nguyễn Văn B. Theo kết quả trả lời xác minh của Công an xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh thì ông B hiện đang cư ngụ tại địa chỉ E5/31 ấp 5, xã M, huyện Bình Chánh. Như vậy, ông B có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

 [3] Về sự vắng mặt của các đương sự: Do nguyên đơn bà Văn Thị L có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về sự vắng mặt của bị đơn, thông qua Văn phòng thừa phát lại huyện Bình Chánh, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cho ông B nhưng ông B vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Bảng theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 [4] Về hôn nhân: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 15 Quyển số 01 đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Bình Lợi, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23-4-1988 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông B là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [5] Trong quá trình giải quyết vụ án, bà L xác định giữa bà và ông B phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp, ông B thường xuyên gây gổ với bà, từ năm 2015 cho đến nay đôi bên ít còn sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Vì vậy, bà L yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông B. Mặt khác, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa xét xử ông B vẫn vắng mặt, không đến Tòa án để thể hiện ý kiến của mình, điều này chứng tỏ đôi bên khó có khả năng đoàn tụ. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của bà L đối với ông B là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [6] Về con chung: Bà L xác nhận giữa bà và ông B chung sống có hai con chung tên là Nguyễn Văn Hoàng Bá N, sinh ngày 15-10-1990 và Nguyễn Thị Hồng T, sinh ngày 10-9-1992, tất cả đã thành niên. Còn ông B vắng mặt, không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông về con chung giữa ông và bà L. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề con chung theo yêu cầu của bà L.

 [7] Về tài sản chung: Bà L xác định giữa bà và ông B không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết; còn ông B vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông về tài sản chung giữa ông và bà L. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề tài sản chung theo yêu cầu của bà L, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

 [8] Về nợ chung: Bà L xác định giữa bà và ông B không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết; còn ông B vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông về nợ chung giữa ông và bà L. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề nợ chung theo yêu cầu của bà L, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

 [9] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn bà Văn Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

 [10] Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56 và Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Văn Thị L đối với bị đơn ông Nguyễn Văn B về việc tranh chấp ly hôn.

1.1 Về hôn nhân: Bà Văn Thị L được ly hôn với ông Nguyễn Văn B. Quan hệ hôn nhân giữa bà Văn Thị L và ông Nguyễn Văn B chấm dứt cũng như giấy chứng nhận kết hôn số 15 Quyển số 01 đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Bình Lợi, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23-4-1988 không còn giátrị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2 Về con chung: Bà Văn Thị L và ông Nguyễn Văn B có hai con chung tên là Nguyễn Văn Hoàng Bá N, sinh ngày 15-10-1990 và Nguyễn Thị Hồng T, sinh ngày 10-9-1992, tất cả đã thành niên.

1.3 Về tài sản chung: Bà Văn Thị L xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

1.4 Về nợ chung: Bà Văn Thị L xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

2. Về án phí: Nguyên đơn bà Văn Thị L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà bà L đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0022254 ngày 30-6-2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Bà L đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Văn Thị L và ông Nguyễn Văn B vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 18/04/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:47/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về