Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 31/08/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 47/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 188/2018/TLST-HNGĐ, ngày 15/5/2018 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 03/8/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 72/2018/QĐST-HNGĐ ngày 20/8/2018, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1991 (có mặt). Địa chỉ: ấp N, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

* Bị đơn: Chị Trần Thị Mỹ B, sinh năm 1989 (vắng mặt). Địa chỉ: Số 221/1 ấp H, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn A thì vụ án có nội dung như sau:

Nguyên đơn A và bị đơn B tự nguyện tổ chức đám cưới về sống chung vào tháng 8 năm 2011, sau đó đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 11/7/2014. Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Hoàng C, sinh ngày 29/6/2013 và Nguyễn Hoàng D, sinh ngày 14/10/2014.

Nguyên nhân mẫu thuẫn vợ chồng là do tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cãi nhau dẫn đến sống chung không hạnh phúc. Từ tháng 10 năm 2016 bị đơn B về nhà cha mẹ sinh sống cho đến nay. Nguyên đơn A đang trực tiếp nuôi cả 02 con chung. Nguyên đơn A cho rằng không còn tình cảm yêu thương và không về sống chung cùng bị đơn B. Vì vậy, nguyên đơn A khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Sóc Trăng giải quyết để nguyên đơn A được ly hôn vợ là bị đơn B.

- Về con chung: Nguyên đơn A yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi cả 02 con chung và không yêu cầu bị đơn B cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nguyên đơn A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn Trần Thị Mỹ B: Từ khi thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng đã tóm tắt nội dung đơn khởi kiện và các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn A tại Thông báo về việc thụ lý vụ án số 301/TB- TLVA, ngày 15/5/2018 và đã tống đạt hợp lệ cho bị đơn B nhưng bị đơn B không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn A. Sau đó, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn B tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hai lần nhưng bị đơn B không tham dự. Vì vậy, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng và đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

* Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng tại phiên tòa như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn A tuân thủ và chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn B không chấp hành đúng theo giấy triệu tập của Tòa án để tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như tham dự phiên tòa sơ thẩm.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn A, giải quyết để nguyên đơn A được ly hôn bị đơn B vì vợ chồng sống chung không hạnh phúc. Đề nghị để nguyên đơn A được tiếp tục nuôi 02 con chung tên Nguyễn Hoàng C, sinh ngày 29/6/2013 và Nguyễn Hoàng D sinh ngày 14/10/2014, bị đơn B không phải cấp dưỡng nuôi con do nguyên đơn A không yêu cầu. Tài sản chung, nợ chung, do nguyên đơn A không yêu cầu giải quyết còn bị đơn B không có ý kiến về tài sản chung và nợ chung nên Tòa án không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa sơ thẩm, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng bị đơn B vẫn vắng mặt không rõ lý do. Tại phiên tòa, nguyên đơn A yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn B theo quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định xét xử vắng mặt bị đơn B.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa, nguyên đơn A trình bày về quan hệ hôn nhân và con chung như sau: Nguyên đơn A và bị đơn Trang tự nguyện tổ chức đám cưới về sống chung vào tháng 8 năm 2011, sau đó đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 11/7/2014. Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Hoàng Nghi, sinh ngày 29/6/2013 và Nguyễn Hoàng Thức sinh ngày 14/10/2014. Lời trình bày nêu trên của nguyên đơn A phù hợp với Giấy chứng nhận kết hôn và Giấy khai sinh của các con chung do nguyên đơn A cung cấp cho Tòa án. Vì vậy, theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử khẳng định đây là sự thật.

[3] Về quan hệ hôn nhân:

Nguyên đơn A yêu cầu được ly hôn vợ là bị đơn B. Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn A thì thấy rằng:

Hiện nay, nguyên đơn A không còn tình cảm yêu thương bị đơn B, không muốn sống chung cùng bị đơn B và cương quyết ly hôn bị đơn B. Xét thấy, từ tháng 10 năm 2016 đến nay, nguyên đơn A và bị đơn B đã không sống chung cùng nhau, trong một thời gian dài các bên không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, các bên đều không có biện pháp cụ thể nào để đoàn tụ gia đình. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định: Mâu thuẫn vợ chồng của các đương sự đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn A, tuyên bố nguyên đơn Nguyễn Văn A được ly hôn vợ là bị đơn Trần Thị Mỹ B.

[4] Về nuôi con chung:

Nguyên đơn A yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi cả 02 con chung tên tên Nguyễn Hoàng Nghi và Nguyễn Hoàng Thức và không yêu cầu bị đơn B cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu nuôi con của nguyên đơn A thì thấy rằng: Cháu C và cháu D còn nhỏ, mới hơn 5 tuổi và gần 04 tuổi, chưa tới tuổi trưởng thành, cần phải có sự quan tâm chăm sóc của cả cha và mẹ nhưng khi cha mẹ ly hôn thì chỉ có một người trực tiếp nuôi con. Trên thực tế thì nguyên đơn A là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung từ nhỏ cho đến nay, cuộc sống về mọi mặt vẫn được bảo đảm tốt, tình cảm cha con đã gắn bó. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải giao cháu C và cháu D cho cha là nguyên đơn A tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi là hợp tình, hợp lý và đúng quy định của pháp luật. Do nguyên đơn A không yêu cầu bị đơn B cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Bị đơn B có quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định tại Điều 58 Luật hôn nhân và gia đình, không ai được cản trở bị đơn B thực hiện quyền này.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn A cho rằng không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn bị đơn B không có ý kiến về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp về tài sản chung hay nợ chung, thì các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết bằng vụ án khác.

Đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận như những căn cứ và phân tích nêu trên.

[6] Án phí sơ thẩm: Nguyên đơn A phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 3 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 56 vả Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

 Tuy ên x ử :

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn A.

1. Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn Nguyễn Văn A được ly hôn vợ là bị đơn Trần Thị Mỹ B.

2. Về con chung:

- Nguyên đơn A được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi 02 con chung tên Nguyễn Hoàng C, sinh ngày 29/6/2013 và Nguyễn Hoàng D, sinh ngày 14/10/2014 đến khi các con đủ 18 tuổi. Bị đơn B không phải cấp dưỡng nuôi con do nguyên đơn A không yêu cầu. Bị đơn B có quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật, không ai được cản trở bị đơn B thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

4. Án phí sơ thẩm:

Nguyên đơn A phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm mà nguyên đơn A đã nộp, theo biên lai thu tiền số 0002263, ngày 14/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Sóc Trăng, nguyên đơn A đã nộp đủ án phí sơ thẩm, bị đơn B không phải chịu án phí sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn A được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Đối với bị đơn B, thời hạn kháng cáo nêu trên được tính kể từ ngày bị đơn B nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 31/08/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:47/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về