Bản án 47/2018/HS-ST ngày 10/10/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 47/2018/HS-ST NGÀY 10/10/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2018/TLST-HS ngày 05/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2018/QĐXXST-HS ngày 27/9/2018 đối với bị cáo Lê Văn H (tên gọi khác: B) sinh ngày 19/8/1995 tại huyện Đ S, tỉnh T H; nơi cư trú: Thôn T, thị trấn R T, huyện Đ S, tỉnh T H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H sinh năm 1972 và bà Phạm Thị H sinh năm 1976; vợ, con: Chưa; tiền án: Ngày 14/6/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Q X, tỉnh T H tuyên phạt 08 tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; ngày 23/11/2017 chấp hành xong hình phạt, chưa xóa án tích; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 16/4/2018, bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T H, tỉnh T H khởi tố bị can về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; ngày 09/8/2018, bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ S, tỉnh T H khởi tố bị can về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; ngày 27/6/2018 bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã A bắt khẩn cấp, tạm giữ đến ngày 29/6/2018 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Văn Ph sinh năm 1998; nơi cư trú: Số nhà 212/8 Hoàng Văn Th, phường Q T, thành phố Q N, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

- Người làm chứng: Nguyễn Thị Lệ H sinh năm 1990; nơi cư trú: Số nhà 294 Trần Ph, phường B Đ, thị xã A, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 26/6/2018, Lê Văn H gọi điện thoại đến hãng taxi Sun yêu cầu chở khách. Hãng taxi Sun điều anh Nguyễn Văn Ph điều khiển xe đến số nhà 50 An D V , thành phố Q N, tỉnh Bình Định để chở H đến thị xã A. Trong lúc ngồi trên xe, H phát hiện anh Ph sử dụng hai điện thoại di động nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. Để cho anh Ph tin, H tự giới thiệu tên T sinh năm 1992, quê ở Hải Phòng đi đến

A đón người yêu xuống thành phố Q N chơi. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, anh Phchở H đến phường B Đ, thị xã A, tỉnh Bình Định. H giả vờ gọi điện thoại cho người yêu. Sau đó, H yêu cầu anh Ph chở đến Phòng giao dịch A - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh P T (BIDV) để gửi tiền. Thực chất H không có tiền để gửi mà vào ngân hàng ngồi chơi khoảng 10 phút quay trở ra. H rủ anh Ph đến quán của chị Nguyễn Thị Lệ Hằng ở số nhà 294 Tr P, phường B Đ, thị xã A ngồi uống nước, chờ người yêu. Do không có tiền thanh toán tiền nước nên H lấy điện thoại di động hiệu Masstel màu đỏ của mình thế chấp cho chị H. Sau đó H bảo anh Ph chở đến tiệm may “Hồng” trên đường Q T, phường B Đ, thị xã A. H xuống xe và nói dối điện thoại hết tiền, rồi mượn điện thoại của anh Ph gọi cho người yêu ra lấy đồ. Anh Ph đưa điện thoại Iphone 6, màu vàng cho H mượn. H cầm điện thoại giả vờ bấm số nói chuyện với người yêu. H đi vào tiệm tạp hóa cạnh tiệm may “Hồng”, rồi đi ra nói với anh Ph để H vào chợ B Đ mua trái cây. H đi vào chợ giả vờ mua trái cây rồi cầm điện thoại của anh Ph bỏ chạy trốn vào Ngân hàng BIDV, anh Ph truy đuổi theo nhưng không kịp. Vì nghĩ H vừa giao dịch với Ngân hàng nên anh Ph vào Ngân hàng BIDV hỏi thông tin cá nhân của H thì phát hiện Hưng đang cầm điện thoại nên bắt giữ giao công an.

Ngày 27/6/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã A kết luận: Điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu vàng trị giá 3.100.000đ

Vật chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã A đã trả lại chiếc điện thoại Iphone 6, màu vàng cho anh Nguyễn Văn Ph; tạm giữ điện thoại di động hiệu Masstel, màu đỏ của Hưng theo biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu ngày 26/6/2018.

Tại bản Cáo trạng số 27/CT-VKSAN ngày 05/9/2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã A truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên Tòa bị cáo Lê Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, tỏ thái độ ăn năn, hối hận.

Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã A giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù; tịch thu sung công quỹ điện thoại Masstel của bị cáo vì đây là công cụ phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

 [2] Lê Văn H là đối tượng sống lang thang, có 01 tiền án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 26/6/2018, Nguyễn Văn Phú điều khiển xe taxi của hãng Sun chở Lê Văn H từ thành phố Q N ra thị xã A. Lê Văn H phát hiện anh Nguyễn Văn Ph sử dụng hai điện thoại di động nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. Để thực hiện hành vi chiếm đoạt, Lê Văn H giới thiệu thông tin sai sự thật về  Nhân thân của mình, dùng thủ đoạn gian dối yêu cầu anh chở Ph vào Ngân hàng BIDV để gửi tiền với mục đích làm cho anh Ph tin rằng H là người có tiền, mời anh Ph uống nước nhằm tạo sự gần gũi và làm cho anh Ph tin tưởng, H giả vờ lấy điện thoại gọi cho người yêu nhưng báo với anh Ph là máy hết tiền, để anh Ph cho mượn điện thoại Iphone 6 màu vàng. Nhận được điện thoại từ anh Ph bị cáo nói dối với anh Ph vào chợ B Đ mua trái vây rồi bỏ trốn. Ngày 27/6/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã A kết luận: điện thoại Iphone 6, màu vàng mà bị cáo đã chiếm đoạt trị giá 3.100.000đ.

 [3] Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Văn H tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản phúc cung của Viện kiểm sát, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, tang vật vụ án và các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan cảnh sát điều tra đã thu thập. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã A đã truy tố.

 [4] Hành vi của bị cáo Lê Văn H là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã dùng nhiều thủ đoạn gian dối nhằm lừa anh Nguyễn Văn Ph chiếm đoạt điện thoại Iphone 6 màu vàng rồi tìm cách bỏ trốn. Bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội ở địa phương nên cần xử lý nghiêm. Bị cáo có một tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích nhưng vẫn không lấy đó làm bài học tự cải tạo, rèn luyện. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu đang bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T H, Công an huyện Đ S, tỉnh T H khởi tố bị can về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nên cần có một mức án nghiêm khắc tương ứng với tính chất nguy hiểm và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã A đã trả lại chiếc điện thoại Iphone

6, màu vàng cho anh Nguyễn Văn Ph là đúng quy định pháp luật. Điện thoại di động hiệu Masstel, màu đỏ của bị cáo Lê Văn H là công cụ dùng vào việc phạm tội nên theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

 [6] Về án phí: Bị cáo Lê Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm số tiền 200.000đ theo điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội

[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự

Xử phạt bị cáo Lê Văn H 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt khẩn cấp (ngày 27/6/2018).

Xử lý vật chứng: Áp dung điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự,

Tịch thu sung công quỹ nhà nước điện thoại di động hiệu Masstel, màu đỏ của bị cáo Lê Văn Hưng theo biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã A lập ngày 26/6/2018.

Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2018/HS-ST ngày 10/10/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:47/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã An Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về