Bản án 47/2019/HNGĐ-ST ngày 15/07/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 47/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 15/7/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 232/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2019/QĐST-HNGĐ ngày 07/6/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 76/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27/6/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị H (Sinh năm 1986)

ĐKHKTT và nơi cư trú: Tổ 57, khu 6B, phường H, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh

Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn K (Sinh năm 1979)

ĐKHKTT: Thôn Đ, xã Đ, Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

Nơi cư trú: Tổ 57, khu 6B, phường H, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh

Vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

1-Theo đơn khởi kiện và các lời khai của chị Bùi Thị H trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa thể hiện:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị H và anh Lê Văn K có đăng ký kết hôn vào ngày 15/01/2008 tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở tự nguyện, trước khi kết hôn chưa ai có vợ có chồng. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, do đó phát sinh mâu thuẫn từ nhỏ đến lớn. Hai vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, không khí gia đình rất căng thẳng, hai vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Hai vợ chồng đã sống ly thân nhau từ cuối năm 2017 cho đến nay, chị và các con về nhà ngoại sống. Chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, nên chị đề nghị xin được ly hôn anh Lê Văn K.

- Về con chung: Chị Bùi Thị H và anh Lê Văn K có hai con chung Lê Quang H (Sinh ngày 097/8/2008) và Lê Việt A (Sinh ngày 07/5/2012).

Trong quá trình giải quyết vụ án chị H đề nghị nếu vợ chồng ly hôn chị nhận trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung Lê Việt A đến tuổi thành niên (Đủ 18 tuổi), anh K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung Lê Quang H đến tuổi thành niên (Đủ 18 tuổi), không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung với ai.

Tại phiên tòa chị thay đổi quan điểm: Vợ chồng ly hôn chị đề nghị được quyền trực tiếp trông nom, chăm súc, nuôi dưỡng và giáo dục hai con chung cho đến khi mỗi con chung đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) và anh Lê Văn K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Hai vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Công nợ chung: Không có

2-Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, Thông báo mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật cho anh Lê Văn K. Nhưng anh Lê Văn K không chấp hành, không lên Tòa tham gia giải quyết vụ án. Do đó, Việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được xem xét trên cơ sở chứng cứ do nguyên đơn cung cấp.

3- Xác nhận của chính quyền địa phương (Tổ trưởng và tổ phó của Tổ 57, khu 6B, phường H, thành phố Hạ Long): Vợ chồng anh Lê Văn K và chị Bùi Thị H cư trú tại tổ 57, khu 6B, phường H, thành phố Hạ Long. Hai vợ chồng chung sống với nhau như thế nào tổ dân khu phố không được rõ. Khi giao các văn bản của Tòa án anh K có nhận và có quan điểm không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên hiện nay anh K chị H sống ly thân mỗi người ở một nhà, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

4- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long có quan điểm:

- Về tố tụng:

Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung khởi kiện: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

Về quan hệ hôn nhân: Vợ chồng chị Bùi Thị H và anh Lê Văn K kết hôn có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo lời khai của nguyên đơn thể hiện vợ chồng đã mâu thuẫn từ lâu, nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm với nhau nên thường xuyên cãi vã, xô xát. Từ năm 2017, Chị H đã sống ly thân với chồng, hai vợ chồng không còn tình cảm, không quan tâm đến nhau nữa. Anh K không có quan điểm gì về việc ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng kéo dài, không thể cùng chung sống để xây dựng hạnh phúc gia đình, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị H yêu cầu xin ly hôn anh K là có căn cứ theo Điều 19, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

- Về con chung: vợ chồng có 02 con chung, cháu trai lớn (sinh năm 2008), cháu trai nhỏ (sinh năm 2012). Để cả hai cháu ở với mẹ để chị H vừa chăm sóc và hướng dẫn cháu khi tuổi đang phát triển. Không bên nào phải cấp dưỡng cho bên nào.

- Về tài sản chung: đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đề cập.

- Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định tại khoản 4, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Bùi Thị H có đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long giải quyết việc hôn nhân của chị và anh Lê Văn K. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 - Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thành phố Hạ Long.

Anh K đã được Tòa án tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ theo đúng trình tự tố tụng dân sự, nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

- Quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Bùi Thị H và anh Lê Văn K trên cơ sở hoàn toàn hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh - đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật nhà nước công nhận và bảo vệ. Qua lời trình bày của chị H cũng như xác nhận của chính quyền địa phương về tình trạng hôn nhân của vợ chồng thể hiện: Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, do đó phát sinh mâu thuẫn từ nhỏ đến lớn. Hai vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, không khí gia đình rất căng thẳng, hai vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Hai vợ chồng đã sống ly thân nhau từ cuối năm 2017 cho đến nay, mỗi người một nơi không ai quan tâm đến ai, chị và các con về nhà ngoại sống. Tình cảm vợ chồng không còn, Nguyện vọng của anh Lê Văn K không muốn ly hôn nhưng trong quá trình giải quyết vụ án anh K không có mặt tại Tòa án và cũng không có biện pháp gì để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng.

Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh K đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Bùi Thị H ly hôn với anh Lê Văn K.

- Về con chung: Bùi Thị H và anh Lê Văn K có 02 con chung là: Lê Quang H (Sinh ngày 07/8/2008) và Lê Việt A (Sinh ngày 07/5/2012).

Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu được nuôi con chung của chị H là những yêu cầu chính đáng của mỗi người làm cha, làm mẹ. Trong quá trình lấy lời khai của các con chung cũng đều thể hiện nguyện vọng mong muốn ở với mẹ. Để đảm bảo điều kiện sống, học tập ổn định và xét nguyện vọng chính đáng của các con chung, nên giao hai con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi mỗi con chung đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) là hoàn toàn phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị H không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung: Chị Bùi Thị H có quan điểm vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.Về công nợ chung: không có

Nên Hội đồng xét xử không đề cập

[3] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự nguyên đơn chị Bùi Thị H phải nộp án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

[4] Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 - Bộ luật tố tụng dân sự.

- Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị H.

1-Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị H được ly hôn anh Lê Văn K.

2-Về con chung: Giao cho chị Bùi Thị H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai con chung Lê Quang H (Sinh ngày 07/8/2008) và Lê Việt A (Sinh ngày 07/5/2012) cho đến khi mỗi con chung đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi), anh K không phải cấp dưỡng nuôi con chung với chị H nhưng có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết

4- Về công nợ chung: Không có

Về án phí: Chị Bùi Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) là tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hạ Long theo Biên lai thu tiền số 0000836 ngày 01/4/2019. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HNGĐ-ST ngày 15/07/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:47/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về