Bản án 47/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 47/2019/HS-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 50/2019/TLST-HS, ngày 28 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2019/HSST-QĐ ngày 11/4/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu P, sinh ngày 02/11/1967 tại huyện Y, tỉnh Tuyên Quang

Nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/10, dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Hữu M. và bà Bùi Thị K. (đều đã chết); vợ là Đinh Thị N, sinh năm 1975; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2001; Anh chị em ruột có 7 người, bị cáo là con thứ 7; tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 20/12/2017 bị Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, thời hạn 03 tháng, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Quyết định số 77a/QĐ-UBND ngày 20/12/2017)

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bùi Minh T, sinh năm 1959

Nơi cư trú: Tổ 30, phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 17/01/2019, bị cáo Nguyễn Hữu P. điều khiển xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, biển kiểm soát 22A-012.48 của vợ bị cáo là chị Đinh Thị N. đến khu vực Km 3 đường Tuyên Quang - Hà Nội, thuộc xã A, thành phố T, gặp 01 người đàn ông (theo bị cáo khai là Bùi Minh T.) và hỏi mua được 01 gói Heroine (gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng, bên trong là chất bột màu trắng ngà) với số tiền 700.000 đồng (bẩy trăm ghìn đồng), bị cáo cất gói Heroine vào túi quần đang mặc. Khi trao đổi mua bán Heroine xong, Tuấn nhờ bị cáo lái xe ô tô đưa về nhà T. ở tổ 3, phường T, thành phố T, khi về đến nhà T, bị cáo đỗ xe ô tô ở trước cửa nhà, sau đó đi vào nhà vệ sinh của nhà T lấy một ít Heroine trong gói vừa mua được ra sử dụng, bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể. Số Heroine còn lại bị cáo chia thành 02 gói nhỏ (01 gói được gói bằng nilon màu trắng là vỏ của bơm kim tiêm; 01 gói được gói bằng giấy bạc màu vàng), cất giấu vào túi quần đang mặc. Khi bị cáo ra đến xe ô tô thì bị Tổ công tác Công an thành phố Tuyên Quang phát hiện, bắt quả tang, hồi 17 giờ cùng ngày. Bị cáo tự giác giao nộp 02 gói Heroine trên.

Tại Bản Kết luận giám định số 179/GĐKTHS ngày 21/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất bột màu trắng ngà trong gói giấy bạc màu vàng thu giữ của Nguyễn Hữu P. là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,110g (Không phẩy một một không gam). Số chất bột màu trắng ngà trong gói nilon màu trắng thu giữ của Nguyễn Hữu P. là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,073g (Không phẩy không bảy ba gam). Tổng khối lượng của 02 gói là 0,183g (Không phẩy một tám ba gam) Heroine.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 52/CT-VKSTP ngày 26 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu P. về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu P. phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu P. từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, trong có chứa chất ma túy (Heroine), trả lại cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân. Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu P. đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng truy tố đối với bị cáo; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Khi nói lời sau cùng bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu P. tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ ngày 17/01/2019, tại khu vực tổ 3, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Nguyễn Hữu P. đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,183g (không phẩy một tám ba gam) Heroine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực hành vi dân sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý sử dụng của nhà nước về chất ma tuý. Hành vi của bị cáo được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ tái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật và có cơ sở, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về mức án đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[5] Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo P. không có tài sản gì có giá trị, bị cáo tàng trữ để sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ của bị cáo: 0,183g (không phẩy một tám ba gam) Heroine. Sau khi lấy đi giám định số còn lại cùng bao bì được niêm phong trong 1 phong bì có dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và chữ ký của bị cáo P. Đây là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với Giấy chứng minh nhân dân số 070988822 mang tên Nguyễn Hữu P, đây là giấy tờ tuỳ thân nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, biển kiểm soát 22A- 012.48: Quá trình điều tra xác định xe ô tô của vợ bị cáo là chị Đinh Thị N, ngày 29/01/2019 Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 12/QĐ-XLVC trả lại xe cho chị Đinh Thị N. nên không xem xét.

[7] Đối với người đàn ông, theo bị cáo khai là Bùi Minh T. là người bán Heroine cho bị cáo vào ngày 17/01/2019 ở khu vực Km 3 đường Tuyên Quang - Hà Nội, thuộc xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Cơ quan Điều tra đã áp dụng các biện pháp điều tra, nhưng không có căn cứ chứng minh Tuấn là người bán Heroine cho bị cáo và việc bị cáo sử dụng Heroine ở nhà T, T. không biết nên không có căn cứ xử lý.

[8] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của bị cáo P., Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử phạt hành chính, phạt tiền 750.000 đồng (QĐ số 34/QĐ-XPVPHC ngày 21/01/2019) nên không xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo P. phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu P. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu P. 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (17/01/2019).

2. Căn cứ vào: Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

- Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì giấy niêm phong còn nguyên vẹn bên ngoài mặt trước phong bì ghi “Tang vật vụ Nguyễn Hữu P, giám định ngày 17/01/2019”, mặt sau có chữ ký của bị cáo Nguyễn Hữu P. và 05 hình dấu mầu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong phong bì có chứa Heroine (đối tượng giám định hoàn lại), là tang vật của vụ án thuộc loại nhà nước cấm lưu hành.

- Trả lại cho bị cáo P. 01 Giấy chứng minh nhân dân số 070988822 mang tên Nguyễn Hữu P.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/4/2019 giữa Công an thành phố Tuyên Quang với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang).

3. Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

- Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu P. phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo P. được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T. được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về