Bản án 479/2017/DS-ST ngày 20/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 479/2017/DS-ST NGÀY 20/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 215/2016/TLST-DS ngày 22 tháng 6 năm 2016 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 143/2017/QĐXX-ST ngày 22 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty Tài chính TNHH MTV H.

Địa chỉ : Đường P, Phường H, quận B, TP. Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị H, Giấy ủy quyền ngày 17/5/2016 số 2300507907/2016-GUQ.

Bị đơn: Bà Nguyễn Điện Diễm T. (VẮNG MẶT)

Địa chỉ: Đường T, Phường N, quận T, TP. Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của Công ty Tài chính TNHH MTV H đối với bà Nguyễn Điện Diễm T được Tòa án nhân dân quận Tân Bình thụ lý và Công ty bổ sung tại các bản tự khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, bà H đại diện Công ty Tài chính TNHH MTV H (Công ty tài chính) trình bày:

Vào ngày 17/7/2013 bà Nguyễn Điện Diễm T có ký hợp đồng tín dụng trả góp số2300507907 với Công ty tài chính, theo đó bà T vay số tiền 21.548.000 đồng, trong hạn 15 tháng, ngày giải ngân là ngày ký hợp đồng, lãi suất vay là 6.16%/tháng. Tổng số tiền bà T phải thanh toán là 33.840.000 đồng chia đều cho 15 tháng, mỗi tháng trả góp là 2.256.000 đồng.

Từ ngày ký hợp đồng đến ngày 05/01/2015, bà T đã thanh toán cho nguyên đơn được tổng số tiền 28.072.000 đồng, trong đó có 27.822.000 đồng vốn và lãi phạt là 250.000 đồng. Tuy nhiên đến nay bà T không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn yêu cầu bà T thanh toán toàn bộ số tiền còn thiếu là 6.668.000 đồng, trong đó gốc là 5.627.305 đồng, lãi là 390.695 đồng và do bà T vi phạm nghĩa vụ nên phải chịu thêm tiền phạt do vi phạm hợp đồng là 650.000 đồng được quy định tại hợp đồng vay trả góp, đúng như bà T đã thừa nhận tại bản tự khai cùa bà vào ngày 07/7/2016 tại Tòa án nhân dân quận Tân Bình là bà còn thiếu nợ nguyên đơn 6.668.000 đồng. Nay nguyên đơn yêu cầu bà T thanh toán một lần hết số tiền vừa nêu là 6.668.000 đồng ngay sau bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu bà T chậm trả tiền kể từ khi Công ty Tài chính nộp đơn yêu cầu thi hành án thì bà T phải trả thêm số tiền lãi theo khoản 1 Điều 468 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân quận Tân Bình có Thông báo cho Bà Nguyễn Điện Diễm T biết về yêu cầu khởi kiện của Công ty Tài chính, ngày 07/7/2016 bà T đã đến Tòa án lập bản tư khai có trình bày ý kiến, nguyện vọng của mình và Tòa án đã tiến hành triệu tập bà T hai lần hợp lệ tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để bà T đến Tòa án kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ của nguyên đơn và hòa giải và để bà T trình bày ý kiến và nguyện vọng của mình với sự có mặt của nguyên đơn nhưng bà T vẫn vắng mặt lần hai không lý do nên không thể tiến hành phiên họp và hòa giải được.

Tòa án đã tiếp tục tiến hành triệu tập hai lần hợp lệ bà T tham gia phiên tòa xét xử vụ án nhưng bà T vắng mặt lần hai không lý do, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và dành quyền kháng cáo cho bà Nguyễn Điện Diễm T theo qui định của luật pháp.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn: Vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu bà Nguyễn Điện Diễm T thanh toán cho nguyên đơn tiền còn thiếu là 6.668.000 đồng, trong đó tiền gốc là 5.627.305 đồng và lãi 390.695 đồng và do bà T vi phạm nghĩa vụ nên phải chịu tiền phạt do vi phạm hợp đồng là 650.000 đồng. Yêu cầu bà T thanh toán một lần hết số tiền vừa nêu là 6.668.000 đồng ngay sau bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu bà T chậm trả tiền kể tử khi Công ty Tài chính nộp đơn yêu cầu thi hành án thì bà T phải trả thêm số tiền lãi theo khoản 1 Điều 468 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn: Đã được Tòa án tống đạt niêm yết triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa xét xử vụ án nhưng vẫn vắng mặt lần hai không lý do, Hội đồng xét xử công bố bản tự khai của bà T ngày 07/7/2016 và vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về vụ kiện :

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tiến hành tố tụng và xét xử vụ án tại phiên tòa đã tuân thủ đúng theo Bộ luật tố tụng dân sự và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án không có gì sai phạm. Sau khi phân tích, đánh giá , nhận định về nội dung tranh chấp và các tình tiết của vụ án ; đồng thời đánh giá, nhận định về tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án tại phiên tòa hôm nay. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận.

Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thẩm quyền: Vào ngày 17/7/2013 Công ty Tài chính TNHH MTV H (tên cũ Công ty TNHH MTV T) có ký hợp đồng tín dụng trả góp số 2300507907 với bà Nguyễn Điện Diễm T, do bà T vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Công ty Tài chánh khởi kiện là phù hợp khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Bình theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Về người tham gia tố tụng:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H là đại diện theo ủy quyền của Công ty Tài chính TNHH MTV H là người khởi kiện, theo giấy ủy quyền ngày 17/5/2016 số 2300507907/2016-GUQ tham gia tố tụng với tư cách đại diện nguyên đơn là hợp lệ.

- Bị đơn: Bà Diễm T là người bị Công ty Tài chính TNHH MTV H khởi kiện nên bà T tham gia tố tụng với tư cách bị đơn là hợp lệ.

- Về việc tham gia phiên tòa của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Tân Bình: Trong vụ án này, Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ theo Điều 97 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nên Viện Kiểm sát nhân dân quận Tân Bình tham gia phiên tòa sơ thẩm và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án là phù hợp quy định tại Điều 21, Điều 262 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

 [3] Hội đồng xét xử xét thấy:

Theo trình bày của Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên H thì vào ngày 17/7/2013 Công ty TNHH MTV T nay đổi tên thành Công ty Tài chính TNHH MTV H có ký hợp đồng tín dụng trả góp số 2300507907 với bà Nguyễn Điện Diễm T.

Căn cứ vào điểm 1 phần I của hợp đồng ghi trên thì Nguyên đơn cho bà T vay với số tiền 21.548.000 đồng tổng thời gian vay 15 tháng quy định tại điểm 4 Phần I của hợp đồng, ngày giải ngân là ngày ký hợp đồng. Lãi suất vay là 6.16%/tháng quy định tại điểm 8 Phần I của hợp đồng ghi trên. Tổng số tiền bà T phải thanh toán là 33.840.000 đồng chia đều cho 15 tháng. Theo quy định tại điểm 6 Phần I của hợp đồng thì ngày trả góp hàng tháng là ngày 6, số tiền trả góp là 2.256.000 đồng.

Từ ngày ngày ký hợp đồng đến ngày 05/01/2015, bà T đã thanh toán cho nguyên đơn được tổng số tiền 28.072.000 đồng. Tuy nhiên đến nay bà T không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn yêu cầu bà T thanh toán toàn bộ số tiền còn thiếu là 6.668.000 đồng, trong đó gốc là 5.627.305 đồng và lãi 390.695 đồng và do bà T vi phạm nghĩa vụ nên phải chịu tiền phạt do vi phạm hợp đồng, theo điểm 6.2 điều 6 phần II của hợp đồng là 650.000 đồng. Yêu cầu bà T thanh toán hết một lần số tiền vùa nêu là 6.668.000 đồng ngay sau bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Theo trình bày của bà T có tại bản tư khai ngày 07/7/2016 thì ngày 17/7/2013 bà có ký hợp đồng vay của Công ty TNHH MTV T cho đến tháng 10/2014 còn nợ lại công ty 6.018.000 đồng và tiền phạt 650.000 đồng, tổng cộng 6.668.000 đồng, nay vì hoàn cảnh khó khăn bà xin trả dần mỗi tháng 500.000 đồng.

Tuy nhiên, sau đó Tòa án đã tiến hành triệu tập bà T hai lần hợp lệ tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để bà T đến Tòa án kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ của nguyên đơn và hòa giải để bà T trình bày ý kiến và nguyện vọng của mình với sự có mặt của nguyên đơn nhưng bà T vẫn vắng mặt lần hai không lý do nên không thể tiến hành phiên họp và hòa giải được.

Tòa án đã tiếp tục tiến hành triệu tập hai lần hợp lệ bà T tham gia phiên tòa xét xử vụ án nhưng bà T vắng mặt lần hai không lý do, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và dành quyền kháng cáo cho Bà Nguyễn Điện Diễm T theo qui định của luật pháp.

Căn cứ lời trình bày cùng với việc xuất trình các chứng cứ của nguyên đơn có tại hồ sơ khởi kiện, cùng lời khai của bà T ngày 07/72016 và yêu cầu đối với bà T như đã nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của Công ty Tài chính TNHH MTV H đối với bà T là phù hợp nghĩ nên chấp nhận được.

Về thời hạn thanh toán: Do bà T không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Tài chính TNHH MTV H trong thời gian thực hiện hợp đồng và tính cho đến nay còn số nợ tồn đọng quá lâu so với thời hạn chấm dứt chấm dứt hợp đồng vay trả góp số 2300507907 đến nay đã hơn 2 năm, vì vậy cần ấn định cho bà T phải trả hết số tiền cho

Công ty Tài chính TNHH MTV H trong thời gian nhất định, đồng thời nếu sau thời gian ấn định mà bà T chưa thanh toán hết nợ thì bà T phải trả thêm khoản lãi tương ứng với số tiền và thời gian chưa thanh toán theo quy định tại điểm 8 Phần I của hợp đồng là 6.16%/tháng, căn cứ Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 của Quốc hội nước Việt Nam.

Việc Công ty Tài chính TNHH MTV H yêu cầu bà T trả tiền lãi kể từ ngày Công ty Tài chính TNHH MTV H có đơn yêu cầu thi hành án thì bà T phải trả thêm số tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 là không phù hợp với Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 của Quốc hội nước Việt Nam và không phù hợp với điểm 8 Phần I hợp đồng vay trả góp số 2300507907 mà hai bên đã ký ngày 17/7/2013 nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [4] Về án phí dân sự sơ thẩm :

Do yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên phía bị đơn phải chịu nộp án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải trả cho nguyên đơn theo qui định tại khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án và theo điểm b khoản 2 phần I, Danh mục án phí của Danh mục án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/2009;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 273, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 91 Luật cá tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 cua Quốc hội nước Việt Nam;

- Căn cứ Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

- Căn cứ khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án; và căn cứ mục 1 phần I, Danh mục mức án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/2009;

- Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung năm 2014.

TUYÊN XỬ

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên H

Buộc bà Nguyễn Điện Diễm T thanh toán cho nguyên đơn một lần hết toàn bộ số tiền còn thiếu là 6.668.000 (sáu triệu, sáu trăm sáu mươi tám nghìn) đồng, trong đó nợ gốc là 5.627.305 đồng và lãi 390.695 đồng và tiền phạt do vi phạm hợp đồng là 650.000 đồng, để Công ty Tài chính TNHH MTV H chấm dứt vụ kiện bà T theo hợp đồng vay trả góp số 2300507907 ngày 17/7/2013.

Thời gian thực hiện: Ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn chưa trả số tiền nêu trên thì hàng tháng bị đơn còn phải trả cho nguyên đơn số tiền lãi với mức lãi suất 6.16%/tháng theo quy định tại điểm 8 Phần I của hợp đồng vay trả góp số 2300507907 ngày 17/7/2013 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Địa điểm giao nhận tiền: Tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2. Án phí Dân sự sơ thẩm là: 333.400 đồng (ba trăm ba mươi ba nghìn bốn trăm) đồng) Bà Nguyễn Điện Diễm T phải nộp tại Thi hành án dân sự quận Tân Bình. Hoàn lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí cho Công ty Tài chính TNHH MTV H là 200.000 (hai trăm nghìn ) đồng theo biên lai thu tiền số AA/2016/0010641 ngày 10/6/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết hợp lệ. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định Điều 273, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 479/2017/DS-ST ngày 20/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:479/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về