Bản án 48/2017/HSST ngày 05/09/2017 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 48/2017/HSST NGÀY 05/09/2017 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 50/2017/HSST ngày 07 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Cao Tuấn E, sinh năm 1993, tại Cần Thơ;

ĐKTT: Ấp C, xã X, huyện X tỉnh Đ;

Chỗ ở: Ấp H, thị trấn K, huyện P, tỉnh H;

Nghề nghiệp: Làm thuê;

Trình độ văn hóa: 9/12;

Con ông Cao Tùng L và bà Phan Thị H;

Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt truy nã ngày 13/6/2017, tạm giam ngày 17/6/2017.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Lê Hoàn X, sinh năm 1997; ĐKTT: Ấp V, xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre. Chỗ ở: Nhà trọ X, ấp P, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre.(có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Phan Thị H, sinh năm 1970; ĐKTT: Ấp C, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai. (có mặt)

- Nguyễn Ngọc T sinh năm 1961; ĐKTT: Số B khu phố N, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.(vắng mặt)

- Nguyễn Tuấn T, sinh năm 1990; ĐKTT: Ấp M, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

NHẬN THẤY

Bị cáo Cao Tuấn E bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào sáng ngày 08/4/2017, Cao Tuấn E lên mạng internet (Zalo) tìm, kết bạn và làm quen với anh Lê Hoàn X. Nickname trên mạng của E là Nguyễn Hoàng Q, Nickname của X là Massa boy.

Sau khi làm quen, cả hai hẹn gặp nhau đi chơi. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Cao Tuấn E điều khiển xe mô tô biển số 60M4-2615 đi từ chỗ ở trọ của mình tại xã T, huyện C đến nhà trọ X thuộc ấp P, xã A để chở X đi uống cà phê. Nhưng do trời đã khuya nên cả hai không đi uống cà phê mà đi ra công viên ở khu tái định cư thuộc xã Quới Sơn ngồi chơi. Đến khoảng 22 giờ 30 phút thì E điều khiển xe đưa X về lại nhà trọ của X ở, lúc này nhà trọ đã đóng cửa, X lấy điện thoại ra định gọi cho bà chủ nhà trọ ra mở cửa. Cùng lúc này, Cao Tuấn E cũng định gọi về nhà kêu mẹ mở cửa nhưng điện thoại của E hết pin nên E hỏi mượn điện thoại di động của X để gọi điện về cho mẹ. X đồng ý, nói “nè” và đưa điện thoại di động hiệu OPPO F1S màu vàng cho E mượn. Khoảng cách X đứng cách vị trí E đang ngồi trên xe mô tô là 01 mét.

Khi E cầm điện thoại của X bấm số để gọi, do thấy điện thoại mới, có giá trị nên E nảy sinh ý định chiếm đoạt bán kiếm tiền tiêu xài, lợi dụng lúc X vừa quay mặt vào nhà trọ kêu cửa, E cầm điện thoại của X và nhanh chóng điều khiển xe bỏ chạy tẩu thoát về nhà trọ của mình tại ấp T, xã T. X chạy bộ đuổi theo truy hô nhưng không kịp.

Lấy được điện thoại của X, E tháo bỏ sim. Đến sáng hôm sau, E mang điện thoại của X đến tiệm mua bán điện thoại Hữu Đức ở khu phố 3, thị trấn Châu Thành chạy lại toàn bộ chương trình rồi mang về nhà gắn thẻ nhớ của mình vào máy sử dụng.

Sau khi mất điện thoại, Lê Hoàn X nhớ được tên trên mạng của Cao Tuấn E nên X sử dụng tên khác để tìm và kết bạn với E. Đến ngày 13/4/2017, cả hai hẹn gặp nhau ở quán cà phê “Cỏ xanh” ở gần ngã tư huyện Châu Thành, X nhờ một số người bạn của mình cùng đi để đối phó với E. Khi E đang dừng xe mô tô biển số 60M4-2615 đứng trước cửa của quán, thì X cùng những người bạn của mình phát hiện, bắt giữ E giao cho cơ quan công an.

Vật chứng thu giữ là 01 xe mô tô biển số 60M4-2615, nhãn hiệu WAYMAN màu đỏ, có số máy FMH-075006, số khung 023TH-024027.

Ngày 13/4/2017, bà Phan Thị H (mẹ ruột của E) đem điện thoại mà E cướp giật được của X đến giao nộp cho cơ quan công an.

Tại bản kết luận định giá trị tài sản số 306/KL-HĐĐG ngày 15/5/2017 của Hội đồng định giá huyện Châu Thành xác định: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng của Lê Hoàn X có giá trị là 4.792.000 đồng.

Qua làm việc, Cao Tuấn E đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Trong quá trình điều tra, xác định xe mô tô biển số 60M4-2615 là tài sản của bị can Cao Tuấn E mua lại của người khác nhưng chưa làm thủ tục sang tên.

Bà Phan Thị H thay Cao Tuấn E bồi thường cho Lê Hoàn X số tiền 1.000.000 đồng chi phí trả góp trong thời gian điện thoại OPPO bị Cao Tuấn E chiếm đoạt.

Ngày 04/7/2017, Cơ quan CSĐT-Công an huyện Châu Thành đã trả 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S màu vàng cho anh Lê Hoàn X.

Hiện nay, anh Lê Hoàn X, bà Phan Thị H không có yêu cầu nào khác.

Cáo trạng số 52/KSĐT-KT ngày 07/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố Cao Tuấn E về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 136 của Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 136; điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Cao Tuấn E từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bà Phan Thị H thay Cao Tuấn E bồi thường cho Lê Hoàn X số tiền 1.000.000 đồng chi phí trả góp trong thời gian điện thoại OPPO bị Cao Tuấn E chiếm đoạt. Bà H không yêu cầu bị cáo hoàn lại số tiền trên và anh X, bà H không có yêu cầu gì khác.

* Về xử lý vật chứng:

- Ghi nhận Cơ quan CSĐT-Công an huyện Châu Thành đã trả 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S màu vàng cho anh Lê Hoàn X.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 xe mô tô biển số 60M4-2615, nhãn hiệu WAYMAN màu đỏ, loại xe nữ, dung tích xi lanh 108 cm3, có số máy FMH-075006, số khung 023TH-024027 là công cụ phương tiện phạm tội.

Căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên Tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Tuấn T, Nguyễn Ngọc T; người làm chứng Đinh Phương T, Lê Tiến N, Nguyễn Chí C, Nguyễn Thái S vắng mặt không có lý do. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa đề nghị Tòa án tiếp tục xét xử do sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người này là phù hợp với quy định tại Điều 191, Điều 192 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1999.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với các tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra, hoàn toàn phù hợp với lời trình bày của người bị hại về đặc điểm tài sản, vị trí, thời gian thời gian và phương thức mà bị cáo chiếm đoạt tài sản. Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định vào khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 08/4/2017, trước cổng nhà trọ Xuân Hương thuộc khu vực thuộc ấp Phước Thới, xã An Phước, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, sau khi được anh Lê Hoàn X cho mượn điện thoại di động hiệu OPPO F1S màu vàng, bị cáo Cao Tuấn E đã có hành vi cầm điện thoại của anh X rồi điều khiển xe mô tô nhanh chóng tẩu thoát nhằm chiếm đoạt cái điện thoại của anh X.

Hành vi của bị cáo E là hành vi nhanh chóng tẩu thoát sau khi chiếm giữ được điện thoại của anh X; khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tại bản kết luận định giá trị tài sản số 306/KL-HĐĐG ngày 15/5/2017 của Hội đồng định huyện Châu Thành xác định: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng của anh Lê Hoàn X có giá trị là 4.792.000 đồng.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Cao Tuấn E phạm vào tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 1999. Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội.

Trong vụ án này, bị cáo thực hiện hành vi cướp giật tài sản nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản để bán tiêu xài cá nhân, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, công khai và trên thực tế các bị cáo đã thực hiện việc chiếm đoạt được tài sản như ý định của bị cáo.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương nơi bị cáo thực hiện tội phạm, tạo sự bất bình, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm mọi người không an tâm trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi.

Xét tình tiết tăng nặng, bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã, gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng trong quá trình điều tra nên cần xem xét trong lúc lượng hình.

Xét tình tiết giảm nhẹ, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả; người bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo được quy định tại điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự; không có tình tiết tăng nặng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là phù hợp.

Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội để răn đe và phòng ngừa chung.

* Về trách nhiệm dân sự:

- Anh Lê Hoàn X đã nhận bồi thường số tiền 1.000.000 đồng và đã nhận lại tài sản là điện thoại di động OPPO F1S xong và không có yêu cầu gì thêm nên ghi nhận.

- Bà Phan Thị H (mẹ của bị cáo E) không yêu cầu bị cáo E hoàn lại số tiền 1.000.000 đồng bà đã bồi thường thay cho bị cáo nên ghi nhận.

* Về xử lý vật chứng: Đối với xe mô tô biển số 60M4-2615, nhãn hiệu WAYMAN màu đỏ, loại xe nữ, dung tích xi lanh 108 cm3, có số máy FMH-075006, số khung 023TH-024027 quá trình điều tra xác định bị cáo mua lại của người khác nhưng chưa là thủ tục sang tên (có giấy mua bán xe) nên đây là tài sản của bị cáo. Do bị cáo dùng xe mô tô biển số 60M4-2615 làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước là phù hợp.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Cao Tuấn E bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cao Tuấn E phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 136; điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33 Bộ luật hình sự.

1/ Xử phạt bị cáo Cao Tuấn E 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2017.

2/ Trách nhiệm dân sự:

- ghi nhận anh Lê Hoàn X đã nhận bồi thường số tiền 1.000.000 đồng và đã nhận lại tài sản là điện thoại di động OPPO F1S xong và không có yêu cầu gì thêm.

- Ghi nhận bà Phan Thị H không yêu cầu bị cáo E hoàn lại số tiền 1.000.000 đồng bà đã bồi thường thay cho bị cáo.

Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

3/ Xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước xe mô tô biển số 60M4-2615, nhãn hiệu WAYMAN màu đỏ, loại xe nữ, dung tích xi lanh 108 cm3, có số máy FMH-075006, số khung 023TH-024027.

(Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 08/8/2017 giữa Công an huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre với Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre).

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14  quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

4/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Cao Tuấn E phải chịu là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2017/HSST ngày 05/09/2017 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:48/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về