Bản án 48/2018/HSST ngày 24/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 48/2018/HSST NGÀY 24/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 04 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận T, xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 39/2018/HSST ngày 09 tháng 03 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2018/QĐXXST-HS ngày 12/04/2018 đối với bị cáo:

Phan Thanh D; sinh năm: 1982; tại Quảng T; thường trú: 26 kênh Tân H, phường Phú T, quận T; chỗ ở: không nơi cư trú rõ ràng; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn T và bà Đỗ Thị Mỹ D; chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị can đang bị tạm giam từ ngày 15/12/2017. -Có mặt.

Người bị hại:

Ông Ngô Văn B, sinh năm 1959; trú tại: 18/13 Lê Văn P, phường P, quận T , Thành phố H – Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 1 giờ 30 phút ngày 25/3/2017, Phan Thanh D đi bộ qua nhiều tuyến đường tìm tài sản sơ hở để trộm cắp, bán lấy tiền tiêu xài và sử dụng ma túy. Khoảng 03 giờ 30 phút cùng ngày, Phan Thanh D phát hiện cửa sổ tầng 1 nhà số 18/13 Lê Văn P, phường P, quận T khép hờ nên đột nhập vào để trộmcắp tài sản. D bám vào cổng cửa ra vào, đi men theo tường rào và trèo lên lan can tầng 1, chui qua cửa sổ vào trong nhà. Lúc này, D thấy ông Nguyễn Văn B đang nằm ngủ, tư thế đầu hướng vào tường, chân hướng về phía D đang đứng, ở phía trên đầu giường kế bên tủ đứng bằng gỗ để quần áo nơi ông B nằm có để 02 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng – vàng và Samsung Note 3 màu đen và trên bàn làm việc sát vách tường có để 01 máy tính xách tay hiệu Dell, màu đen nên tiến đến lấy 02 chiếc điện thoại di động và máy tính. Sau đó, D đi ra phía lan can, theo đường cũ, leo ra ngoài.

Khi xuống đến mặt đất, D đi đến bên hông trái nhà số 18/13 Lê Văn P, vị trí sát vách tường, bên cạnh các chậu cây để cất giấu chiếc máy tính xách tayhiệu Dell vừa trộm được thì bị ông B phát hiện, lén đi theo sau đến trước số 580Lũy Bán B, phường Hòa T, quận T thì bị tri hô và túm lấy cổ áo D. Trong lúc giằng co để thoát thân, chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu trắng – vàng trộm được của ông B, đang bỏ trong túi quần bên phải, rơi ra và rớt xuống đất.

Sau đó, D tiếp tục bỏ chạy đến trước số 787 Lũy Bán B, phường Tân T, quận T thì bị ông B bắt giữ giao Công an phường P xử lý.

Tại Cơ quan điều tra, Phan Thanh D đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập.

Quá trình điều tra, ngày 04/5/2017, D bỏ trốn khỏi địa phương nên Cơ quan điều tra ra Quyết định truy nã số 04 ngày 29/7/2017. Đến ngày 15/12/2017 thìbắt được D.

Theo Kết luận định giá tài sản số 131 ngày 10/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND quận T:

Điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu trắng – vàng, 16GB, số IMEI:990002746756236 trị giá 2.000.000 đồng.Máy tính xác tay hiệu Dell 15-3521, core i3, màu đen, trị giá 7.000.000 đồng.

Vật chứng:

-01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu trắng – vàng, 16GB, số IMEI: 990002746756236; 01 máy tính xách tay hiệu Dell 15-3521, core i3, màu đen. Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông B.

-01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 3, màu đen, 32 GB chưa thu hồi được. Gia đình D đã bồi thường 4.000.000 đồng cho ông B.

-01 áo sơ mi tay dài màu hồng; 01 quần kaki lửng màu xám; 01 khẩutrang sọc ca rô, màu đen– trắng – đỏ. D sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội, hiện nhập kho vật chứng chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 06 tháng 03 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân quận T đã truy tố bị cáo Phan Thanh D về tội:"Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố đề nghị hội đồng xét xử theo khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên Tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận T giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm b, i, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phan Thanh D từ 06 đến 01 năm tù.

- Bị cáo Phan Thanh D thống nhất v ớ i tội danh và khung hình phạt như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận T đã truy tố, không có oan sai, không có ý kiến tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định Phan Thanh D đã lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản cụ thể: Khoảng 1 giờ 30 phút ngày 25/3/2017, Phan Thanh D đi bộ đến nhà số 18/13 Lê Văn P, phường P, quận T cửa khép hờ nên đột nhập vào lén lút lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng – vàng trị giá 2.000.000 đồng và 01 Samsung Note 3 trị giá 3.000.000 đồng màu đen và lấy 01 máy tính Dell core i3 trị giá 7.000.000 đồng. Sau đó, D đi ra phía lan can, leo ra ngoài. Khi xuống đến mặt đất, thì bị ông B phát hiện, lén đi theo sau đến trước số 580 Lũy Bán B, phường Hòa T, quận T thì bị tri hô và túm lấy cổ áo D bắt giữ cung tang vật giao Công an phường P xử lý.

Vì vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Phan Thanh D phạm tội “Trộm cắp tài sản” như bản cáo trạng truy tố là có cơ sở và căn cứ truy tố theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 là đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài nhưng không muốn bỏ công sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Lợi dụng sơ hở của người bị hại, chứng tỏ ý thức xem thường pháp luật của bị cáo.

 [3] Về nhân thân:

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội là do cố ý nên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

 [4] Tuy nhiên cũng xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tài sản đã thu hồi trả cho bị hại, gây thiệt hại không lớn, phạm tội lần đầu tuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gia dình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại 4.000.000 đồng để khắc phục hậu quả do đó nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, i, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về trách nhiệm dân sự: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng – vàng trị giá 2.000.000 đồng và lấy 01 máy tính Dell core i3 trị giá 7.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trao trả cho bị hại Nguyễn Văn B. Riêng 01 Samsung Note 3 màu đen trị giá 3.000.000 đồng khi chạy trên đường rơi mất không thu hồi lại được gia đình bị cáo đã bồi thường cho ông B 4.000.000 đồng, Ông B không yêu cầu gì nên không xem xét thêm

 [6] Về xử lý vật chứng. -01 áo sơ mi tay dài màu hồng; 01 quần kaki lửng màu xám; 01 khẩu trang sọc ca rô, màu đen – trắng – đỏ. D sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội là vật chứng không còn giá trị sử dụng xét nên tịch thu tiêu hủy.

 [9] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và dân sự theo quy định.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Phan Thanh D phạm tội:"Trộm cắp tài sản"

Áp dụng Khoản 1 Điều 138 bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm b, i, h, s khoản 1 Điều 51 luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phan Thạnh D 07 (bảy) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 15 tháng 12 năm 2017. 2015.

[2] Áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm Tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi tay dài màu hồng; 01 quần kaki lửng màuxám; 01 khẩu trang sọc ca rô, màu đen – trắng – đỏ. (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 144/PNK ngày 27 tháng 03 năm 2017 tại kho vật chứng Công an quận T).

 [3] Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Phan Thanh D nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2018/HSST ngày 24/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:48/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về