Bản án 48/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 48/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 6 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 412/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 05 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/6/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Trần Văn H, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Số 37A/3B, khu phố T 1, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Tạm trú: Khu dân cư Đ, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Bị đơn: Bà Khúc Thị H, sinh năm 1974.

Địa chỉ: Số 37A/3B, khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Tạm trú: Số 109, Khu dân cư Đ, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

 Ông Trần Văn H và bà Khúc Thị H có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/04/2019, các lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Trần Văn H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Văn H và bà Khúc Thị H tự nguyện tìm hiểu, tiến đến hôn nhân và đăng ký kết hôn năm 1997 tại Ủy ban nhân dân thị trấn D, huyện T (nay là UBND thị xã D) tỉnh Bình Dương theo giấy đăng ký kết hôn số 187/97, quyển số 01 ngày 06/11/1997. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, đến đầu năm 2015 thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẩn, nguyên nhân mâu thuẩn là do bà Khúc Thị H thường xuyên ghen tuông vô cớ, mỗi lần mâu thuẩn bà Khúc Thị H thường lấy dao để uy hiếp tinh thần ông Trần Văn H. Trong những lần tranh cãi như vậy, có hai lần đã làm bị thương ông Trần Văn H. Ngoài ra bà Khúc Thị H thường xuyên có thái độ không tôn trọng gia đình chồng và hiện nay bà Khúc Thị H cũng không còn quan tâm gì đến ông Trần Văn H và bỏ mặc gia đình. Mặc dù sống chung nhà nhưng vợ chồng đã ly thân 02 năm nay. Từ tháng 4/2019 đến nay ông Trần Văn H đã chuyển ra ngoài sinh sống.

Nay ông Trần Văn H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với bà Khúc Thị H.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên là Trần Thị H, sinh ngày 27/5/1998 và Trần Ngọc Anh T, sinh ngày 10/11/2005. Sau khi ly hôn, ông Trần Văn H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Ngọc Anh T và không yêu cầu bà Khúc Thị H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Về con chung Trần Thị H đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên nếu các con mong muốn được sống cùng mẹ thì ông Trần Văn H đồng ý và tôn trọng nguyện vọng của con là được sống chung với mẹ và ông Trần Văn H không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn bà Khúc Thị H trình bày: Bà Khúc Thị H thống nhất với lời trình bày của ông Trần Văn H về quan hệ hôn nhân và quan hệ con chung. Về mâu thuẩn vợ chồng, bà Khúc Thị H thừa nhận là có việc bà Khúc Thị H đã dùng dao nhưng không phải để uy hiếp chồng mà chủ yếu đe dọa tinh thần chồng. Nguyên nhân chủ yếu là do bà Khúc Thị H ghen tuông những mối quan hệ xã hội của ông Trần Văn H. Tất cả việc xảy ra ghen tuông là xuất phát từ tình yêu thương của bà Khúc Thị H dành cho ông Trần Văn H, việc ông H bị sát thương là do va chạm trong quá trình giành lại con dao nên bị trúng phải, bà Khúc Thị H không cố ý sát thương ông Trần Văn H. Nay ông Trần Văn H yêu cầu được ly hôn, yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là cháu Trần Ngọc Anh T, bà Khúc Thị H không đồng ý vì bà Khúc Thị H vẫn còn yêu thương chồng con. Nếu trường hợp Tòa án giải quyết cho ông Trần Văn H được ly hôn thì bà Khúc Thị H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là cháu Trần Ngọc Anh T và không yêu cầu ông Trần Văn H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Quá trình tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành và tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Trần Văn H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về điều kiện thụ lý vụ án: Căn cứ vào đơn khởi kiện của ông Trần Văn H thì đây là vụ án tranh chấp ly hôn, nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn là bà Khúc Thị H có địa chỉ tại số 37A/3B, khu phố T 1, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương (tạm trú tại số 109, Khu dân cư Đ, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương) nên Tòa án nhân dân thị xã D thụ lý giải quyết theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 và Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Văn H và bà Khúc Thị H là vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn D, huyện T (nay là phường D, thị xã D), tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận kết hôn số 187/97, quyển số 01 ngày 06/11/1997 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

[3] Ông Trần Văn H và bà Khúc Thị H đều thống nhất khai nhận vợ chồng chung sống với nhau từ năm 1997 đến năm 2015 thì thường xuyên phát sinh nhiều mâu thuẩn. Nguyên nhân mâu thuẩn là do bà Khúc Thị H tính tình nóng nảy, thường xuyên ghen tuông và trong lúc ghen tuông bà Khúc Thị H thường xuyên có hành vi dùng dao đe dọa uy hiếp tinh thần ông Trần Văn H. Bà Khúc Thị H và ông Trần Văn H đều thống nhất vợ chồng đã sống ly thân 02 năm nay và từ tháng 4/2019 đến nay ông Trần Văn H đã chuyển nhà đi nơi khác sinh sống không sống cùng nhà với bà Khúc Thị H.

Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt.

Ông Trần Văn H và bà Khúc Thị H đều thống nhất việc bà Khúc Thị H thường xuyên nóng nảy và có hành vi dùng dao đe dọa uy hiếp tinh thần ông Trần Văn H khi bà Khúc Thị H ghen tuông các mối quan hệ xã hội của ông Trần Văn H. Việc dùng dao uy hiếp tinh thần ông Trần Văn H xảy ra hai lần và có lần đã gây thương tích cho ông Trần Văn H. Ông Trần Văn H và bà Khúc Thị H đã sống ly thân 02 năm nay và hiện nay ông Trần Văn H không cùng sống chung nhà với bà Khúc Thị H, như vậy có căn cứ xác định mâu thuẫn hôn nhân của ông Trần Văn H và bà Khúc Thị H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Ông Trần Văn H yêu cầu ly hôn, bà Khúc Thị H không đồng ý ly hôn vì cho rằng vẫn còn thương yêu chồng con nhưng trong thời gian vợ chồng sống ly thân đến nay bà Khúc Thị H cũng không có hành động nào tích cực để hằn g n tình cảm vợ chồng. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của ông Trần Văn H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống ông Trần Văn H và bà Khúc Thị H có 02 con chung tên là Trần Thị H, sinh ngày 27/5/1998 và Trần Ngọc Anh T, sinh ngày 10/11/2005. Bà Khúc Thị H mong muốn được nuôi dưỡng con chung là cháu Trần Ngọc Anh T và không yêu cầu ông Trần Văn H cấp dưỡng nuôi con. Ông Trần Văn H đồng ý giao con chung cho bà Khúc Thị H nuôi dưỡng trong trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn và điều này phù hợp với nguyện vọng của cháu Trần Ngọc Anh T là mong muốn được sống chung với mẹ nên căn cứ Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình 2014, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung cho bà Khúc Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Khúc Thị H không yêu cầu ông Trần Văn H cấp dưỡng nuôi con. Đối với con chung Trần Thị H đã trưởng thành, các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Từ những nhận định trên, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.

[7] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Khoản 4 Điều 147, 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Văn H được ly hôn với bà Khúc Thị H (theo giấy chứng nhận kết hôn số 187/97, quyển số 01 ngày 06/11/1997 tại Ủy ban nhân dân thị trấn D, huyện T (nay là phường D, thị xã D), tỉnh Bình Dương).

2. Về con chung: Buộc ông Trần Văn H giao con chung tên Trần Ngọc Anh T, sinh ngày 10/11/2005 cho bà Khúc Thị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Khúc Thị H không yêu cầu ông Trần Văn H cấp dưỡng nuôi con. Con chung Trần Thị H sinh ngày 27/5/1998 đã trưởng thành, các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Sau ly hôn, ông Trần Văn H và bà Khúc Thị H đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở ông, bà thực hiện quyền này. Trường hợp ông Trần Văn H lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc bà Khúc Thị H nuôi con thì bà Khúc Thị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Văn H chịu 300.000 đồng án phí ly hôn được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0028491 ngày 02/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương.

5. Án xử công khai, tuyên án có mặt ông Trần Văn H và bà Khúc Thị H.

6. Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:48/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về