Bản án 48/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 48/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 26 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 102/2019/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 28/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Phạm Quốc K - sinh năm 1975 (có mặt)

Địa chỉ: Khu phố Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Ngọc T - sinh năm 1978 (vắng mặt lần 2 không có lý do)

Địa chỉ: Khu phố Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Kiên Giang. 

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa anh Phạm Quốc K trình bày: Anh Phạm Quốc K và chị Nguyễn Ngọc T tự tìm hiểu nhau khoảng 01 năm đi đến tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Kiên Giang ngày 27/5/2005.

Lý do xin ly hôn: Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống trong cuộc sống, từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, mâu thuẫn ngày gay gắt, thấy tiếp tục chung sống với nhau không có hạnh phúc nên vợ chồng tự ly thân từ năm 2018 đến nay. Đến ngày 18/4/2019 anh K làm đơn xin ly hôn.

- Về con chung: Có 01 con chung tên: Phạm Ngọc Phương T - sinh ngày 20/7/2005. Hiện đang sống với chị Nguyễn Ngọc T.

Tại phiên tòa anh K yêu cầu:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh K yêu cầu được ly hôn với chị T.

- Về con chung: Anh K đồng ý tiếp tục giao cháu Phạm Ngọc Phương T - sinh ngày 20/7/2005 cho chị Nguyễn Ngọc T nuôi dưỡng, anh K không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án có triệu tập chị Nguyễn Ngọc T để hòa giải hôn nhân và gia đình, nhưng chị T vắng mặt, nên Tòa án đưa vụ kiện ra xét xử theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã giao quyết định đưa vụ án ra xét xử, Giấy báo phiên tòa hợp lệ nhưng chị T vắng mặt. Tại phiên tòa nguyên đơn đồng ý xét xử vắng mặt bị đơn nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất xử vắng mặt chị Nguyễn Ngọc T.

Xét thấy chị T chưa có ý kiến xác nhận theo đơn khởi kiện xin ly hôn của anh K tại Tòa án. Tuy nhiên, Tòa án đã tống đạt đầy đủ và hợp lệ các thủ tục theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự như: Thông báo thụ lý; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng chị T không đến Tòa án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét mối quan hệ hôn nhân giữa anh K và chị T chung sống với nhau được UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 27/5/2005 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin được ly hôn của anh K là có cơ sở chấp nhận. Bởi vì vợ chồng anh chị chung sống với nhau thời gian đầu hạnh phúc, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Anh K cho rằng do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt hơn. Tại phiên tòa anh K thể hiện rõ quan điểm muốn ly hôn, không muốn đoàn tụ. Mặt khác, anh K, chị T đã bỏ mặc nhau, hai bên đã ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh K, chị T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, trong phần nghị án Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh K được ly hôn với chị T.

[3] Về quan hệ con chung: Anh K, chị T chung sống có 01 người con tên Phạm Ngọc Phương T - sinh ngày 20/7/2005, hiện đang sống với chị Nguyễn Ngọc T. Anh K thống nhất giao cháu T cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, anh K không cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, cháu Phạm Ngọc Phương T hiện đang sống với chị Nguyễn Ngọc T và nguyện vọng của cháu là muốn ở với chị T. Hội đồng xét xử thống nhất giao cho chị T tiếp tục nuôi con là phù hợp. Trường hợp chị T có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, có thể kiện thành một vụ kiện khác và sẽ được xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản, nữ trang chung, nợ chung: Anh K xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử miễn xét. Trường hợp chị T cho rằng có tài sản chung và có tranh chấp, sẽ khởi kiện thành một vụ kiện khác và sẽ được xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Buộc anh Khang phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Phạm Quốc K được ly hôn với chị Nguyễn Ngọc T.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Nguyễn Ngọc T tiếp tục nuôi người con tên Phạm Ngọc Phương T - sinh ngày 20/7/2005. Anh Phạm Quốc K không cấp dưỡng nuôi con.

Chị Nguyễn Ngọc T cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh Phạm Quốc K tới lui, thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung.

3. Về quan hệ tài sản, nữ trang, nợ chung: Không có.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Buộc anh Phạm Quốc K phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005477 ngày 19/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Kiên Giang.

5. Quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với chị Nguyễn Ngọc T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:48/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về