Bản án 48/2019/HS-ST ngày 08/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 48/2019/HS-ST NGÀY 08/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3 xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 41/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Dũng T; giới tính: nam, sinh năm 1981 tại Thành phố Hồ Chí Minh; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 59 đường X, Phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; học vấn: 8/12; con ông Lê Văn L, sinh năm 1956 và bà Dương Thị Y, sinh năm 1958.

Nhân thân: ngày 27/12/2014 Công an Phường Y, quận Z bắt về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện 24 tháng.

Tiền sự: Không.

Tiền án:

- Ngày 12/6/2003, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù, về tội “Cướp giật tài sản”.

- Ngày 26/8/2005 bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 42 tháng tù, phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng, về tội “Cướp giật tài sản” (bản án số 138/HSST).

- Ngày 30/3/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xử phạt 03 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tm giữ, tạm giam: ngày 18/02/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Hoàng Đức H, sinh năm 1995; địa chỉ: 622/14 Cộng Hòa, Phường 13, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 05 giờ 00 phút ngày 16/02/2019, anh Hoàng Đức H điều khiển xe gắn máy hiệu Wave màu xanh – đen – bạc, biển số 49D1-481.66 đến trước số 215 Võ Thị Sáu, Phường 7, Quận 3, do buồn ngủ nên anh H dựng xe gắn máy, chìa khóa còn để trên xe và nằm ngủ trên lề đường, điện thoại để kế bên người. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, Lê Dũng T điều khiển xe gắn máy biển số 19-311F3 của T đi ngang qua phát hiện thấy anh H nằm ngủ nên Tiến nảy sinh ý định trộm cắp, T để lại xe gắn máy biển số 19-311F3 của Tiến đang sử dụng và lấy điện thoại, xe máy của anh H đem gửi vào bãi giữ xe số 189 Cống Quỳnh, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1. Sau đó, khoảng 12 giờ cùng ngày, anh H phát hiện mất xe gắn máy và điện thoại di động nên anh H đã gọi điện thoại vào số máy của anh H thì Lê Dũng T nghe máy và có yêu cầu anh H đưa 10.000.000 đồng để chuộc lại xe và điện thoại, anh H đồng ý. Đến khoảng 10 giờ ngày 17/02/2019, T hẹn anh H đến trước số 189 Cống Quỳnh, Quận 1 để đưa tiền thì bị Công an Phường 7, Quận 3 phối hợp với Đội cảnh sát hình sự Công an Quận 3 bắt giữ chuyển cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 3 xử lý. Tại Cơ quan điều tra, Lê Dũng T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tại kết luận định giá tài sản số 17/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 21/02/2019 của Hội đồng địnhgiá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3 xác định: 01 xe gắn máy hiệu Wave màu xanh – đen – bạc, biển số 49D1-481.66, đăng ký lần đầu tháng 01/2018, đã qua sử dụng vào thời điểm tháng 02/2019 có giá là 12.667.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu: HUAWEI; loại Nova L2 (RNE-L22), màu đen số Imei 868735035719725 đã qua sử dụng vào thời điểm tháng 02/2019 có giá 3.063.000 đồng. Tổng giá trị là 12.667.000 đồng + 3.063.000 đồng = 15.730.000 đồng.

Vật chứng của vụ án:

- 01 điện thoại Hua Wei, loại Nova L22 màu đen, số Imei 86873503571925, số tiền 6.700.000 đồng, 01 thẻ giữ xe, 01 chìa khóa xe gắn máy, 01 xe gắn máy hiệu Wave màu xanh – đen, bạc, biển số 49D1-48166, số máy: JA39E0383696, số khung: 3900HY408551. Trong quá trình điều tra đã trả lại cho anh H (bị hại).

- 01 nón bảo hiểm lưỡi trai, nón có 04 màu, xanh, đỏ, trắng, đen.

- 01 thẻ giữ xe của Siêu thị coop Mart Cống Quỳnh - 01 xe gắn máy hiệu Cup 70, màu đỏ, biển số 19-211F3, Lê Dũng T khai mua của người thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 500.000 đồng, qua xác minh không xác định được chủ sở hữu. Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 3 đã thông báo tìm chủ sở hữu nhưng có kết quả.

Về trách nhiệm dân sự: anh Hoàng Đức H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 04/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố với bị cáo: Lê Dũng T, về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo T có lời khai phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 trình bày lời luận tội và đề nghị: Bị cáo Lê Dũng T phạm tội theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ bổ sung năm 2017, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo T từ 03 (ba) đến 04 (bốn) năm tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Lê Dũng T đã thừa nhận hành vi phạm tội và khai nhận như bản cáo trạng đã nêu.

Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người bị hại, người làm chứng, cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Dũng T lợi dụng lúc anh Hoàng Đức H say rượu nên ngủ quên trên lề đường, bị cáo đã có hành vi lén lút lấy trộm xe gắn máy hiệu Wave màu xanh-đen-bạc, biển số 49D1-481.66; trị giá 12.667.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Hua Wei, màu đen loại Nove L22, trị giá 3.063.000 đồng của anh Hoàng Đức H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam, muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Xét nhân thân bị cáo là rất xấu, bị cáo đã nhiều lần bị kết án về tội phạm sở hữu nhưng không lấy làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Hoàng Đức H đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vật chứng:

- 01 điện thoại Hua Wei, loại Nova L22 màu đen, số Imei 86873503571925, số tiền 6.700.000 đồng, 01 thẻ giữ xe, 01 chìa khóa xe gắn máy, 01 xe gắn máy hiệu Wave màu xanh – đen, bạc, biển số 49D1-48166, số máy: JA39E0383696, số khung: 3900HY408551 (đã trả lại cho bị hại anh Hoàng Đức H).

- 01 thẻ giữ xe của Siêu thị coop Mart Cống Quỳnh, 01 nón bảo hiểm lưỡi trai có 04 màu xanh, đỏ, trắng, đen đều không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe gắn máy hiệu Cup 70, màu đỏ, biển số 19-211F3, Lê Dũng T khai mua của người thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 500.000 đồng, qua xác minh không xác định được chủ sở hữu nên cần giao lại cho Chi cục Thi hành án dân sự Quận 3 đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời hạn 01 năm, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ nêu trên 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Dũng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 2 Điều 173; Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Lê Dũng T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày: 18/02/2019.

Áp dụng Điểm a Khoản 2, Khoản 4 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ giữ xe của Siêu thị Coop Mart Cống Quỳnh và - 01 nón bảo hiểm lưỡi trai, nón có 04 màu, xanh, đỏ, trắng, đen.

Giao Chi cục thi hành án dân sự Quận 3 đăng báo tìm chủ sở hữu 01 xe gắn máy hiệu Cup 70, màu đỏ, biển số 19-211F3 trong thời gian 01 năm, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục sung quỹ Nhà nước.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 26/PNK ngày 04/6/2019 của Công an Quận 3).

Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/HS-ST ngày 08/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:48/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về