Bản án 49/2019/HNGĐ-ST ngày 15/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 49/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 15 tháng 10 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 273/2019/TLST-HNGĐ ngày 15/7/2019 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51A/2019/QĐXX-ST ngày 03/9/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 42A/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Bà Đinh Thị M , sinh năm 1998 Nơi cư trú: ấp 2, xã A, huyện Đ, Bình Phước

*Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1989 Nơi cư trú: khu phố T, phường T, thành phố Đ, Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Đinh Thị M trình bày: Tôi và ông Nguyễn Thanh T tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2012 đến năm 2017 mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thị xã Đ, Bình Phước. Trong thời gian chung sống chúng tôi thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, tính tình không hợp, dẫn đến cải vả, gây gỗ lẫn nhau. Chúng tôi đã cố gắng hàn gắn vì các con nhưng không có kết quả nên chúng tôi đã sống ly thân cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với ông T. Việc làm đơn ly hôn tôi có báo cho ông T biết nhưng ông T không lên Tòa giải quyết.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Chúng tôi có 02 con chung là Nguyễn Hữu H, sinh năm 2012 và Nguyễn Thị Pha L, sinh năm 2014, chúng tôi tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, nợ chung và cho vay chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh T: Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần giấy triệu tập cùng các văn bản của Tòa án như thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa để triệu tập ông T lên Tòa án làm việc, tham gia phiên họp và hòa giải, tham gia phiên tòa hôn nhân sơ thẩm nhưng ông T vẫn vắng mặt không rõ lý do.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài phát biểu ý kiến:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã tuân thủ các quy định của thủ tục tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng không thực hiện theo quy định tại điều 70, 72,227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Cuộc sống chung của bà M và ông T có mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án thì yêu cầu về ly hôn của bà M có cơ sở để được chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại Tên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án “Ly hôn” do bà Đinh Thị M đứng đơn khởi kiện. Bị đơn là ông Nguyễn Thanh T có hộ khẩu thường trú và hiện đang sinh sống tại phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 36 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

[1.1] Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án đã tiến hành tống đạt đầy đủ hợp lệ giấy triệu tập cùng các văn bản của Tòa án như thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa để triệu tập ông T lên Tòa án làm việc, tham gia phiên họp và hoà giải, tham gia phiên tòa hôn nhân sơ thẩm nhưng ông T vẫn vắng mặt không rõ lý do. Việc ông T không đến Tòa để tham gia tố tụng là đương nhiên từ bỏ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; Căn cứ vào điều 72, điều 199, điều 227, điều 228 của Bộ lut tố tụng dân sự Tòa án tiến hành giải quyết và xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2].Nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà M và ông T tự nguyện tìm hiểu, yêu thương và chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước vào năm 2017, vào sổ đăng ký kết hôn số 05, ngày 08/02/2017. Căn cứ điều 8 và điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình thì đây là hôn nhân hợp pháp. Do vậy bà M có đơn khởi kiện xin ly hôn với ông T là có căn cứ.

Xét yêu cầu của bà M được ly hôn ông T thấy rằng: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã khuyên bà M hàn gắn tình cảm, quay về đoàn tụ chung sống với ông T nhưng bà M vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với ông T vì cuộc sống chung không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm, tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cải vả, không còn yêu thương quan tâm chăm sóc nhau, bà và ông M đã cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả. Hiện nay bà đã dọn ra ngoài ở riêng, do vậy, bà và ông T đã sống ly thân.

Đi với bị đơn ông Nguyễn Thanh T trong quá trình giải quyết Tòa án đã tiến hành các thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, ông T biết rõ bà M yêu cầu được ly hôn nhưng ông T vẫn không đến Tòa án để thể hiện ý chí nguyện vọng hàn gắn gia đình cũng như đảm bảo quyền lợi ích chính đáng của mình. Do vậy, căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cùng biên bản xác minh tại phường Tân Bình HĐXX xét thấy, hôn nhân hạnh phúc được xây dựng trên sự tự nguyện yêu thương, chăm sóc, tôn trọng lẫn nhau và cùng có trách nhiệm chung với gia đình, nhưng trong cuộc sống chung của bà M và ông T có những mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn nên bà M đã dọn ra ngoài sống riệng, ông T biết nhưng bỏ mặc, cuộc sống chung vì thế không thể tiếp tục kéo dài vì mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: bà M và ông T có 02 con chung là Nguyễn Hữu H, sinh năm 2012 và Nguyễn Thị Pha L, sinh năm 2014, bà M không yêu cầu, ông T vắng mặt nên Hội nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà M không yêu cầu giải quyết, ông T vắng mặt nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Tại phiên tòa, đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3].Án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà M phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 9, Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

[1].Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Đinh Thị M. Tuyên xử bà Đinh Thị M được ly hôn với ông Nguyễn Thanh T.

[2].Về con chung, cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung, nợ chung: Bà M và ông T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[3].Án phí hôn nhân sơ thẩm: bà M phải nộp 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0001224, quyển số 0025 ngày 15/7/2019 của Chi cục Thi hành án thành phố Đ.

[4].Quyền kháng cáo: Bà M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án; ông T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HNGĐ-ST ngày 15/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:49/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về