Bản án 49/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội cướp giật tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 27/09/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2018, tại nhà trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2019/HSST ngày 30/8/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2019/QĐXXST-HS ngày 13/9/2019 đối với các bị cáo:

1. Lương Văn T, sinh năm 1990;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn B, xã L, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Thế S và bà Đoàn Thị C; vợ là Bùi Thị L1 và 01 con. Tiền án, tiền sự: Chưa; tạm giữ từ ngày 31/5 - 04/6/2019, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 05/6/2019 đến nay, có mặt.

2. Mạc Văn Th, sinh năm 1994;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn 3, xã X, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mạc Văn Th1 và bà Hoàng Thị Nh; vợ Trần Thị Hải Y; Tiền án, tiền sự: Chưa; tạm giữ từ ngày 31/5 - 04/6/2019, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 05/6/2019 đến nay, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Th: Luật sư VN, Văn phòng Luật sư Hải Hưng, Đoàn luật sư tỉnh Hải Dương; Địa chỉ: Số 142, đường Nguyễn Duy Tuệ, khu 7, phường Thanh Bình, thành phố Hải Dương, có mặt;

+ Người bị hại:

1/ Cháu Phạm Thị Th2, sinh ngày 22/6/2003

Người đại diện hợp pháp cho cháu Th2: Chị Phạm Thị Ng (chị gái cháu Th2),

Đều có địa chỉ: Thôn C, xã V, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, vắng mặt;

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Ngô Thị Xuân Th3 - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hải Dương;

Địa chỉ: Số 113, phố Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, có mặt;.

2/ Chị Vũ Thị H, sinh năm 1991

Địa chỉ: Thôn C, xã V, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, vắng mặt;

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1975;

Địa chỉ: Thôn TT, phường A, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, vắng mặt;

2/ Anh Nguyễn Trọng K, sinh năm 1996;

Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, vắng mặt;

3/ Anh Phạm Ngọc B, sinh năm 1992

Địa chỉ: số 135, khu 2, phường TM, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, vắng mặt;

+ Người làm chứng:

1/ Cháu Phạm Thị H1, sinh ngày 15/12/2003

Người đại diện hợp pháp của cháu Hường: Anh Phạm Công H2, sinh năm 1973 (bố đẻ cháu H1);

Đều có địa chỉ: Đội 5, thôn C, xã V, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, vắng mặt;

2/ Cháu Phạm Mai A, sinh ngày 12/8/2012

Người đại diện hợp pháp của cháu A: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1991

Đều có địa chỉ: Thôn C, xã V, huyện Thanh Hà, Hải Dương, vắng mặt;

3/ Ông Nguyễn Trọng Th4, sinh năm 1959

Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, vắng mặt;

4/ Anh Phạm Hoàng Th5, sinh năm 1990

Địa chỉ: Thôn HX, xã Q, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 25/5/2019, Lương Văn T sang nhà anh Nguyễn Trọng K, sinh năm 1996, ở thôn Đ, xã L mượn xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen trắng, biển số 34B2-885.... T nói với anh K mượn xe để đi chơi. Anh K đồng ý. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Th đến nhà Th chơi. T bàn với Th tháo biển số xe máy của anh K rồi lắp biển số khác vào để đi cướp giật tài sản. Th đồng ý. Thông tháo biển số xe 34B2-885... và lắp biển số 29M9-4763 (do Th nhặt được). Sau đó, T điều khiển xe chở Th đi trên đường tỉnh lộ 390 hướng xã L đi xã VH. Khi qua ngã ba VH khoảng 15 m, Th phát hiện phía trước cháu Phạm Thị H1 điều khiển xe máy điện chở cháu Phạm Thị Th2 đi cùng chiều. Cháu Th2 đang cầm chiếc điện thoại Iphone 6s màu xám bấm sáng màn hình. T điều khiển xe lên ngang bằng với xe đạp điện của cháu H1, Th ngồi sau dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại trên tay cháu Th2. T điều khiển xe phóng nhanh về hướng thôn P, xã CC rồi vòng ra ngã ba xã VH về nhà T. Th đi xe máy đến cửa hàng bán điện thoại của anh Phạm Ngọc B ở phường TM, thành phố Hải Dương bán được 400.000 đồng. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 13 ngày 03/6/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Thanh Hà kết luận: Giá trị hiện tại của chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu xám, loại 32Gb, số Imei: 352022076627148 trị giá 2.850.000 đồng.

Sáng ngày 28/5/2019, Th đến nhà T chơi. Cả hai thống nhất đi trên đường gặp ai có tài sản sơ hở thì chiếm đoạt lấy tiền tiêu xài. Th tháo biển số xe 34B2-885... và lắp biển số 29M9-4763 vào xe máy Yamaha Sirius mượn của anh K. T chở Th đi đường TL390 hướng từ xã L đi xã V. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến đường liên xã V - CC, cách ngã ba tiếp giáp với đường 390 khoảng 200m thuộc địa phận thôn NL, xã CC, T phát hiện chị Vũ Thị H điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda vision biển số 34B3-601... chở phía sau cháu Phạm Mai A (là con gái chị H) có để tại hốc xe bên trái phía trước chiếc điện thoại di động Sam sung J7 màu hồng. T điều khiển xe đi lên song song với xe của chị H, Th dùng tay phải lấy chiếc điện thoại, T tăng ga bỏ chạy về hướng chợ cháy xã CC rồi về nhà. Th điều khiển xe máy đến cửa hàng điện thoại “T2 mobile” của anh Nguyễn Văn T1 ở TT, A, thành phố Hải Dương bán được 1.000.000 đồng. T dùng số tiền bán điện thoại chi tiêu cá nhân hết. Ngày 31/5/2019, T và Th bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Hà bắt giữ, tiến hành khám xét tại chỗ ở của Lương Văn T thu giữ 01 biển số xe máy 34B2-855.... Tại bản Kết luận định giá tài sản số 14 ngày 03/6/2019, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Thanh Hà kết luận: Giá trị hiện tại của 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J7. Số Imel1: 357625084450827/01, số Imel2: 3576510844510823/01 trị giá là: 3.780.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 45/CT-VKS ngày 29/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà truy tố Lương Văn T, Mạc Văn Th về tội "Cướp giật tài sản" theo điểm d, g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt, xác nhận tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho người bị hại.

Đại diện Viện kiểm sát phân tích chứng cứ tại hồ sơ và lời khai của các bị cáo tại phiên toà, phân tích các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố: Các bị cáo Lương Văn T, Mạc Văn Th phạm tội: "Cướp giật tài sản"

+ Áp dụng d, g khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Lương Văn T từ 42 đến 45 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ 31.5.2019.

Xử phạt bị cáo Mạc Văn Th từ 39 đến 42 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ 31.5.2019.

+ Hình phạt bổ sung: Không áp dụng;

+ Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy 02 biển xe mô tô số 29M9-4763, số 34F7-5790

+ Án phí: Các bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí sơ thẩm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại các bản cung trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai những người bị hại về thời gian, địa điểm, loại tài sản các bị cáo chiếm đoạt, cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: “Khoảng 20 giờ, ngày 25/5/2019, tại đường TL390 địa phận thôn CC, xã VH, huyện Thanh Hà, Lương Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen trắng, biển số 29M9 – 47.., Mạc Văn Th ngồi sau dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu xám trị giá 2.850.000 đồng trên tay của cháu Phạm Thị Th2 sinh ngày 22/6/2003 đang ngồi sau xe đạp điện do cháu Phạm Thị H1 sinh ngày 15/12/2003 điều khiển đi cùng chiều. Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 28/5/2019, tại đường liên xã V - CC, địa phận thôn NL, xã CC, huyện Thanh Hà, Lương Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen trắng biển số 29M9 – 47.., Mạc Văn Th ngồi sau dùng tay phải lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu hồng trị giá 3.780.000 đồng để hốc bên trái đầu xe mô tô nhãn hiệu Vision, BKS 34B3-601.76 của chị Vũ Thị H điều khiển đi cùng chiều”. Hành vi của các bị cáo công khai chiếm đoạt tài sản nhanh chóng tẩu thoát, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, vì động cơ tư lợi cá nhân, có dự mưu từ trước nên đã phạm tội: "Cướp giật tài sản”. Do các bị cáo dùng xe máy để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người bị hại là dùng thủ đoạn nguy hiểm khi thực hiện hành vi phạm tội và cháu Phạm Thị Th2 người bị hại trong vụ án tại thời điểm bị chiếm đoạt tài sản chưa đủ 16 tuổi nên các bị cáo bị truy tố ở điểm d, g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung tăng nặng “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi”, việc truy tố của Viện kiểm sát Nhân dân huyện Thanh Hà hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý không tốt trong quần chúng nhân dân cần có mức án phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo để giáo dục riêng, phòng ngừa chung.

[4] Đánh giá vai trò của các bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo T là người khởi xướng, chuẩn bị xe máy, trực tiếp điều khiển xe máy chở bị cáo Th, để bị cáo Th thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Bị cáo T giữ vai trò chính, bị cáo Th là người thực hành, giữ vai trò thứ hai trong vụ án.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Cả hai bị cáo đồng phạm thực hiện hai hành vi chiếm đoạt tài sản. Mỗi hành vi đều đã cấu thành tội phạm và chưa bị xử lý về hình sự, nên hai bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả người bị hại áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm cho các bị cáo một phần hình phạt.

[7] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào tính chất hành vi, điều kiện kinh tế cũng như nhân thân các bị cáo không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Đối với số tiền mua điện thoại của các bị cáo, anh Phạm Ngọc B, anh Nguyễn Văn T2 tự nguyện cho các bị cáo và chiếc xe máy, bị cáo T mượn của anh K, anh K đã nhận lại, không ai có yêu cầu gì nên không đặt ra giải quyết.

[9] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 02 biển số xe máy (01 biển xe mô tô số 29M9-47.., 01 biển xe mô tô số 34F7-5790) không xác định được chủ sở hữu, cần tịch thu cho tiêu hủy.

[10] Về án phí: Các bị cáo phạm tội phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định của Pháp luật.

[11] Anh Phạm Ngọc Bằng, anh Nguyễn Văn T2 khi mua điện thoại không biết tài sản do Lương Văn T, Mạc Văn Th cướp giật mà có; anh Nguyễn Trọng K không biết Lương Văn T mượn xe mô tô để làm phương tiện đi cướp giật tài sản nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ d, g khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; Luật phí, lệ phí năm 2015.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lương Văn T, Mạc Văn Th phạm tội "Cướp giật tài sản".

2. Xử phạt bị cáo Lương Văn T 42 ( bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ 31/5/2019.

Xử phạt bị cáo Mạc Văn Th 39 ( ba mươi chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ 31/5/2019

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 01 biển xe mô tô số 29M9-4763, 01 biển xe mô tô số 34F7-5790 (Tình trạng vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Hà với Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Hà).

4. Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết. Người có quyền lợi liên quan được kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:49/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về