Bản án 50/2018/HS-ST ngày 13/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 50/2018/HS-ST NGÀY 13/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 4 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2018/HSST ngày 06 tháng 03 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 03 năm 2018, đối với bị cáo:

Dương Bảo Tr; Sinh năm: 1995, tại Kiên Giang; Hộ khẩu thường trú: Ấp x, xã y, huyện z, tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: Khu phố x1, thị trấn y1, huyện z1, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Văn D và bà: Lê Kim T; Gia đình bị can có 01 người con, bị cáo là con thứ 2; chồng: Nguyễn Hoàng N; con: Nguyễn Thị Bảo Th– SN 27/9/2017; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 20/5/2015, Tòa nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 03 tháng 26 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 15/3/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang được tại ngoại và trú tại địa chỉ khu phố x1, thị trấn y1, huyện z1, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Có mặt)

- Bị hại: Chị Trần Tưởng D – sinh năm 1988; cư trú tại: Khu phố x1, thị trấn y1, huyện z1, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt);

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Hoàng N, sinh năm 1992, cư trú tại: Xã x2, huyện y2, tỉnh Cà Mau (vắng mặt);

2. Anh Đặng Hoàng Duy Kh, sinh năm 1987, cư trú tại: x3, Phường y3, quận z3, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 24/11/2017, Dương Bảo Tr điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đến cửa hàng “MK” tại khu phố x1, thị trấn y1, huyện z1, tỉnh BR – VT của chị Trần Tưởng D, để mua tăm bông. Khi chị D đi vào trong nhà lấy tăm bông thì Trang nhìn thấy 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus, màu đen của chị D đang sạc pin trên quầy hàng nên nảy sinh ý định lấy trộm chiếc điện thoại trên bán lấy tiền tiêu xài. Trang liền rút sạc pin rồi bỏ điện thoại vào túi quần. Sau khi thanh toán tiền mua tăm bông, Trang đi về nhà tại khu phố Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, rồi giấu chiếc điện thoại vừa trộm cắp được. Sau đó, Trang đưa chiếc điện thoại trên cho chồng là Nguyễn Hoàng N và nói mình nhặt được và bảo Nhớ tìm người chủ của chiếc điện thoại để cho chuộc lại. Nghe Trang nói vậy nên Nhớ đã tháo sim trong chiếc điện thoại của chị D ra rồi gọi vào số điện thoại (lưu trong danh bạ) của chị Lương Yến M – là bạn của chị D, Nhớ nói chị M muốn chuộc điện thoại thì phải đưa cho Nhớ số tiền 5.000.000 đồng. Sau đó, chị M thông báo lại cho gia đình chị D biết vụ việc. Đến khoảng 09 giờ ngày 27/11/2017, anh Đặng Hoàng Duy Kh, là chồng chị D, đã liên lạc với Nhớ để chuộc lại điện thoại với giá 3.000.000 đồng thì Nhớ đồng ý và hẹn địa điểm để chuộc lại điện thoại. Khi Nhớ và anh Khang đến điểm hẹn thì cơ quan chức năng đã triệu tập Nguyễn Hoàng N và Dương Bảo Tr về làm việc. Quá trình làm việc, Dương Bảo Tr đã thừa nhận hành vi trộm cắp của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 204/KL ngày 29/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Tân Thành, kết luận: 01 máy điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen trị giá 15.599.220 đồng.

Tại bản cáo trạng số 51/CT - VKS ngày 05/3/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Dương Bảo Tr phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g, khoản 2, Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết luận định giá hay các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa hôm nay, trên cơ sở việc hỏi và tranh luận giữa những người tham gia tố tụng công khai, dân chủ và không bị hạn chế:

Ý kiến của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố; và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt với bị cáo như sau:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều38 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Dương Bảo Tr từ 02 năm đến 02 năm năm 06 tháng tù;

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: 01 máy điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, đã được trả lại cho người bị hại.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng truy tố, công nhận Viện kiểm sát truy tố đúng tội danh, không oan. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đãđược thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào 11 giờ ngày 24/11/2017 tại Cửa hàng MK, khu phố x1, thị trấn y1, huyện z1, tỉnh BR-VT, Dương Bảo Tr đã lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của chị Trần Tưởng D, lén lút lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu đen có trị giá 15.599.220 đồng (mười lăm triệu năm trăm chín mươi chín nghìn hai trăm hai mươi đồng).

[3] Về khung hình phạt áp dụng: Nhận thấy ngày 20/5/2015, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 03 tháng 26 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”; đến ngày 15/3/2016, bị cáo tiếp tục bị Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm ” tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 1999. Tính đến thời điểm phạm tội mới, bị cáo chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này được coi là “Tái phạm nguy hiểm”. Vì vậy việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành truy tố đối với bị cáo Dương Bảo Tr về tội “Trộm cắp tài sản” quy định điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự, là đúng người, đúng tội, không oan.

[4] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản củangười khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, nên cần có mức án nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe giáo dục riêng với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra đến khi xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo hiện đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Dương Bảo Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Dương Bảo Tr 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không xem xét.

4. Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong nên không xem xét.

5. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; riêng người vắng mặt tính tình ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2018/HS-ST ngày 13/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:50/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về