Bản án 50/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 50/2018/HS-ST NGÀY 22/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở UBND xã Hùng Đức Toà án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2018/TLST-HS, ngày 01 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2018/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo: 

Lý Trường G, sinh năm 1986, tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang;

Nơi cư trú: Thôn 2, xã Q, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lý Hồng Lưu và con bà Hà Thị Đức. Vợ: Nịnh Thị Em, sinh năm 1995. Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016;

Tiền án: Có 04 tiền án:

+ Bản án hình sự phúc thẩm số 45/2006/HSPT ngày 28/6/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt Lý Trường G 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (tài sản trộm cắp có trị giá là 3.360.000đ). Bị cáo chưa bồi thường phần dân sự cho bị hại.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2009/HSST ngày 26/10/2009 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt Lý Trường G 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (tài sản trộm cắp có trị giá là 1.600.000đ).

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2010/HSST ngày 08/01/2010 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang áp dụng khoản 1 Điều 138; đoạn 1 điểm p khoản 1 Điều 46; đoạn 2 điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 50, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt Lý Trường G 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (tài sản trộm cắp có trị giá là 12.600.000đ). Tổng hợp với Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2009/HSST ngày 26/10/2009 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai Bản án là 30 tháng tù. Bị cáo chưa bồi thường phần dân sự cho bị hại.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2016/HSST ngày 26/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt Lý Trường G 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (tổng tài sản trộm cắp có trị giá là 4.130.000đ). Chấp hành xong các quyết định của Bản án ngày 13/7/2018.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/9/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, (có mặt).

* Bị hại:

1. Anh: Bàn Văn Công, sinh năm 1991;

2. Chị Triệu Thị Hải, sinh năm 1995 - Người đại diện theo ủy quyền: Anh Bàn Văn Công;

Cùng địa chỉ: Thôn Văn Nham, xã Hùng Đức, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 08/9/2018, Lý Trường G sinh năm 1986, trú tại thôn 2, xã Q, huyện S, tỉnh Tuyên Quang mang theo 01 chìa khóa xe môtô đi bộ từ nhà đến thôn Văn Nham, xã Hùng Đức, huyện Hàm Yên để tìm xem có xe môtô nào sơ hở thì trộm cắp. Khoảng 22 giờ cùng ngày, khi G đi bộ qua nhà anh Bàn Văn Công thuộc thôn Văn Nham, xã Hùng Đức, huyện Hàm Yên thì nhìn thấy có một chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22Y1 - 153.77, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, dung tích xi lanh 110; Màu sơn: Trắng - đen của anh Công để ở dưới gầm nhà sàn. Quan sát thấy trong nhà anh Công đều đã đi ngủ, G liền lẻn vào dắt chiếc xe đi ra ngoài đường rồi dùng chìa khóa mở ổ khóa điện của xe và nổ máy xe đi về nhà. Trên đường về (G không nhớ địa chỉ cụ thể), G dừng xe và dùng chìa khóa mở cốp xe, thấy trong cốp xe có 01 Đăng ký xe môtô, 01 bảo hiểm xe mô tô, 01 dây cao su, 01 chiếc cờ lê; G dùng chiếc cờ lê tháo biển số sau đó vứt biển số, cờ lê và dây cao su ở bên đường rồi điều khiển xe đi về nhà. Khi về đến nhà, G đem đốt đăng ký xe và bảo hiểm của xe rồi dùng giấy giáp chà số khung số máy của xe môtô. Ngày 12/9/2018, G biết hành vi phạm tội của mình không thể che giấu được nên đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và giao nộp toàn bộ tang vật.

Tại kết luận định giá tài sản số 27/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 13/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hàm Yên kết luận: 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22Y1 - 153.77, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, dung tích xi lanh 110; Màu sơn trắng - đen có trị giá là 16.912.500 đồng (Mười sáu triệu chín trăm mười hai nghìn năm trăm đồng).

Cáo trạng số 51/CT-VKSHY, ngày 30/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên đã truy tố Lý Trường G về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lý Trường G theo tội danh, Điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Lý Trường G phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Lý Trường G từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam.

* Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

* Về dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lý Trường G đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị hại cùng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ trên đây đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 08/9/2018, Lý Trường G, sinh năm 1986, trú tại thôn 2, xã Q, huyện S, tỉnh Tuyên Quang có hành vi trộm cắp của anh Bàn Văn Công thuộc thôn Văn Nham, xãHùng Đức, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang một chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22Y1 - 153.77, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, dung tích xi lanh 110; Màu sơn: Trắng - đen có trị giá là 16.912.500 đồng (Mười sáu triệu chín trăm mười hai nghìn năm trăm đồng).Hành vi của bị cáo Lý Trường G đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội.

[3] Xét về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo: Vì mục đích vụ lợi bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương và trực tiếp xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác. Bị cáo đã có 04 tiền án về tội trộm cắp tài sản, nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”, nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại điểm g, khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đến Công an huyện Hàm Yên đầu thú; bị cáo là dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; bố bị cáo là ông Lý Hồng Lưu có giấy chứng nhận Huân chương, Huy chương về việc được xét khen thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng ba, Huân chương chiến công hạng ba và Huân chương hữu nghị Quốc tế. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo để lên mức án cho phù hợp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản gì có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh Bàn Văn Công yêu cầu bị cáo bồi thường các chi phí tìm xe, làm lại biển số xe, làm lại đăng ký xe với số tiền là 5.000.000đông (năm triệu đồng), bị cáo nhất trí bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của bị hại.

[6] Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên đã thu giữ 01 (một) chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS. Ngày 21/9/2018, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Bàn Văn Công, nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 173 của Bộ luật hình sự:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lý Trường G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: Điểm g khoản 2, Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Lý Trường G 02 (hai) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (12/9/2018).

2. Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 357, 468, 584, 585, 586, 589 - Bộ luật dân sự.

Công nhận sự thoả thuận giữa bị cáo với bị hại anh Bàn Văn Công. Bị cáo Lý Trường G phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Bàn Văn Công tổng số tiền là 5.000.000đồng (Năm triệu đồng).

Khoản tiền phải bồi thường kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và anh Bàn Văn Công có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chậm bồi thường thì phải trả lãi đối với số tiền chậm bồi thường tương ứng với thời gian chậm bồi thường. Lãi suất phát sinh thực hiện theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.

3. Áp dụng các Điều 136, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận việc thi hành án. Người được thi hành án có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án, người có nghĩa vụ thi hành án phải chấp hành việc thi hành án, nếu không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:50/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về