Bản án 50/2018/HS-ST ngày 29/03/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUỐC - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 50/2018/HS-ST NGÀY 29/03/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2018/TLST- HS ngày 01 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Huỳnh Thanh P, sinh năm: 1984 tại: Đồng Tháp; Nơi ĐKTT: Không có hộ khẩu thường trú; Chỗ ở: Không có chỗ ở cố định; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn Tho, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Năm, sinh năm 1962; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/10/2017 cho đến nay. (Bị cáo có mặt).

* Người bị hại:

- Bà Đoàn Thị Giang T, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Khu phố 10, thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, Kiên Giang.

- Bà Võ Thị Hoài A, sinh năm 1977.

Địa chỉ: 126 Nguyễn Trung Trực, khu phố 8, thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, Kiên Giang.

(Bà T và bà A có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền đánh bài nên bị cáo Huỳnh Thanh P nảy sinh ý định sang huyện Phú Quốc chiếm đoạt tài sản của người khác cầm cố lấy tiền. Sáng ngày 09/10/2017, bị cáo rủ Nguyễn Văn S và Phạm Thị N sang Phú Quốc chơi (bị cáo không nói rõ mục đích với S và N) và thuê phòng tại nhà nghỉ Đức Thảo Phương của bà Võ Thị Hoài A tại khu phố 8, thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc để ở. Tại đây, bị cáo dùng 03 giấy chứng minh nhân dân mang tên Huỳnh Ngọc X, Đàm Thị Thu T và Nguyễn Văn D để thuê phòng và nói với bà A thuê 02 xe môtô để đi lại từ ngày 09/10/2017 đến ngày 10/10/2017 thì bà A đồng ý và cho bị cáo thuê 01 xe môtô hiệu Honda loại Wave S, biển số 54F1-8972 và gọi điện thoại kêu cho chị Đoàn Thị Giang T mang lại nhà nghỉ cho bị cáo thuê 01 xe môtô Honda loại Wave RSX, biển số 69K1-064.14. Sau khi nhận xe, bị cáo cùng với S và N đi chơi quanh đảo Phú Quốc. Đến khoảng 07 giờ ngày 10/10/2017, bị cáo chở N chạy 01 xe và S chạy 01 xe đi tàu Superdong qua Hà Tiên mục đích mang 02 xe môtô (không cho S và N biết mục đích) cầm lấy tiền đánh bài nhưng khi đến bến tàu Hà Tiên thì bị bắt giữ.

* Tại bản kết luận về giá trị tài sản trong Tố tụng hình sự số 76/KL-HĐĐG ngày 13/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện Phú Quốc kết luận: 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại Wave S màu đen xám, biển số đăng ký 54F1- 8972, số máy C12E-0271866, số khung Y-143417 có giá 8.000.000đồng; 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX màu đỏ đen trắng xám, biển số đăng ký 69K1-064.14, số máy C52E-5308741, số khung 5238CY512935 có giá 8.500.000đồng. Tổng giá trị 02 xe mô tô là 16.500.000đồng.

* Tang vật thu giữ:

- 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, loại Wave S màu đen xám, biển số 54F1- 8972, số máy C12E-0271866, số khung Y-143417 (đã trao trả cho chủ sở hữu);

- 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX màu đỏ đen trắng xám, biển số 69K1-064.14, số máy C52E-5308741, số khung 5238CY512935 (đã trao trả cho chủ sở hữu);

- 03 giấy chứng minh nhân dân: 01 giấy mang tên Huỳnh Ngọc X số 205317231, cấp ngày 19/02/2013 tại Quảng Nam; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đàm Thị Thu T số 351813100, cấp ngày 16/01/2014 tại An Giang và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn D số 341850063, cấp ngày 19/3/2015 tại Đồng Tháp.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá số 76/KL-HĐĐG ngày 13/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện Phú Quốc.

Bản cáo trạng số: 23/CT-VKSPQ ngày 31 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc truy tố bị cáo Huỳnh Thanh P về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 139 BLHS.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 139; điểm h, p khoản 1 Điều 46 và Điều 33 BLHS, xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù giam.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên đề nghị HĐXX miễn xét.

Về tang vật: Đề nghị áp dụng Điều 41 BLHS và khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy: 03 giấy chứng minh nhân dân mang tên Huỳnh Ngọc X, Đàm Thị Thu T và Nguyễn Văn D.

Bị cáo không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Người bị hại Võ Thị Hoài A và Đoàn Thị Giang T có đơn xin xét xử vắng mặt và đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo theo quy định pháp luật, không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm vì đã nhận lại tài sản.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định truy tố của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quốc, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Thanh P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc truy tố như sau: Do cần tiền đánh bài nên ngày 10/10/2017 bị cáo đã dùng 03 giấy chứng minh nhân dân mang tên Huỳnh Ngọc X, Đàm Thị Thu T và Nguyễn Văn D thuê 02 xe mô tô của chị Võ Thị Hoài A và Đoàn Thị Giang T tại khu phố 8, thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc mục đích mang qua Hà Tiên cầm cố lấy tiền đánh bài nhưng khi đến bến tàu Hà Tiên thị bị bắt quả tang cùng tang vật chứng.

[3] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, người bị hại và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

[4] Với các tình tiết đã được chứng minh tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận cáo trạng mà viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc truy tố bị cáo Huỳnh Thanh P về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 139 BLHS là đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Xét thấy, bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức được tài sản thuộc sở hữu của người khác là bất khả xâm phạm nhưng vì lòng tham, vì sự ích kỷ của bản thân bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện tội phạm, sử dụng thủ đoạn gian dối là dùng giấy chứng minh nhân dân mang tên người khác để thuê xe của các bị hại nhằm mục đích cầm cố cho người khác lấy tiền đánh bài. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của các chủ sở hữu, gây mất an ninh trật tự địa phương. Do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội đối với loại tội phạm này.

[6] Tuy nhiên, cũng cần xem xét cho bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS khi lượng hình.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại bà Võ Thị Hoài A và bà Đoàn Thị Giang T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm bất cứ khoản nào khác nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[8] Về tang vật: Áp dụng Điều 41 BLHS và khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy: 03 giấy chứng minh nhân dân tên Huỳnh Ngọc X, Đàm Thị Thu T và Nguyễn Văn D.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Thanh P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

2. Áp dụng: khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự 1999; điểm h, p khoản 1 Điều 46 và Điều 33 BLHS.

3. Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Thanh P 09 (chín) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 11/10/2017.

4. Về tang vật: Áp dụng Điều 41 BLHS và khoản 2 Điều 76 BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 03 giấy chứng minh nhân dân tên Huỳnh Ngọc X số 205317231, cấp ngày 19/02/2013 tại Quảng N; giấy chứng minh nhân dân tên Đàm Thị Thu T số 351813100, cấp ngày 16/01/2014 tại An Giang và giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Văn D số 341850063, cấp ngày 19/3/2015 tại Đồng Tháp. (Theo bảng kê vật chứng vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bà Võ Thị Hoài A và bà Đoàn Thị Giang T vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản sao bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

450
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2018/HS-ST ngày 29/03/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:50/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về