Bản án 50/2019/HNGĐ-ST ngày 25/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁ THƯỚC, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 50/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 25 tháng 04 năm 2019, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện B T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2019/TLST-HNGĐ ngày 19/03/2019 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/QĐXX-ST ngày 15/04/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hà Thị H; Sinh năm 1983

Nơi cư trú: Thôn S M , xã Đ L, huyện B  T, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Anh Phạm Văn C; Sinh năm 1979 .

Nơi cư trú: Thôn S M, xã Đ, huyện B  T, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình làm việc tại Tòa án chị H trình bày: Chị Hà Thị H và anh Phạm Văn C tự do tìm hiểu, tự nguyện lấy nhau có tổ chức cưới theo phong tục tập quán ngày 19/9/2001. Anh chị đủ điều kiện kết hôn nhưng không đi đăng ký kết hôn.

Sau khi lấy nhau chung sống hạnh phúc nhưng từ năm 2012 thì vợ chồng mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh C chơi bời, còn có quan hệ với người phụ nữ khác. Anh C thi thoảng lại bỏ nhà đi hàng tuần hoặc mấy ngày mới về, đi đâu làm gì cũng không nói với chị H. Vợ chồng đã nói chuyện với nhau, anh C hứa sẽ sửa đổi nhưng vẫn không thay đổi.
Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng vào khoảng tháng 11 năm 2018 âm lịch. Chị H không còn tình cảm với anh C và không quan tâm đến cuộc sống của anh C. Hiện nay chị H đã đưa cháu Phạm Trường T về nhà ngoại sống ly thân với anh C. Nay chị H xác định không còn thương yêu anh C và không thể tiếp tục sống với anh C được nên nên tha thiết xin ly hôn.

Về con chung: Chị H và anh C có 02 con chung: Cháu Phạm Văn H sinh ngày 21/4/2003 và Phạm Trường T sinh ngày 02/10/2012. Khi ly hôn chị H có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu và yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu một tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng).

Về tài sản tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn: Anh Phạm Văn C trình bày: Anh và chị H tự do tìm hiểu và tự nguyện lấy nhau nhưng không đăng ký kết hôn như chị H trình bày là đúng.

Nhưng theo anh C vợ chồng mâu thuẫn chưa đến mức ly hôn. Anh có sai nhưng những lần anh bỏ nhà đi chơi về anh đều kể hết mọi chuyện với chị H và xin lỗi chị H. Nay chị H làm đơn ly hôn anh C không đồng ý ly hôn và mong muốn đoàn tụ. Tuy anh cảm nhận chị H lâu nay không quan tâm đến anh, anh nhắn tin thì chị không trả lời anh xuống nhà ngoại thì chị không nói chuyện với anh và vào buồng đóng cửa lại anh không thể tâm sự và níu kéo được chị. Nhưng anh C vẫn yêu thương chị H và không bao giờ bỏ vợ con

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung như chị H trình bày là đúng. Nhưng nếu chị H cương quyết bỏ anh thì anh có nguyện vọng nuôi dưỡng hai con chung không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, nợ chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Cháu Phạm Văn H có nguyện vọng ở với cả bố và mẹ không muốn bố mẹ bỏ nhau. Tại phiên tòa cháu H  trình bày cháu muốn được đi về ở trong ngồi nhà cuả bố mẹ.

Tại phiên tòa: Chị H trình bày anh C không có trách nhiệm với vợ con, chưa bao giờ anh làm được tiền về đưa cho chị, trong khi mọi chi tiêu trong gia đình do một tay chị lo liệu. Anh C lại còn ham chơi thích là bỏ nhà đi, chị H cảm thấy chị không được tôn trọng. Nay chị không còn tỉnh cảm với anh C và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn. C có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu một triệu đồng một tháng.

Tại phiên tòa: Anh C  trình bày từ năm 2017 vợ chồng thuê nhà ở trên thị trấn Cành N để hai cháu học trên C N và chị H đi chợ cho thuận tiện. Vì chị H bán hàng trong chợ C N còn anh C đi xe nên anh đi về hai nơi, Khi thì về nhà trọ với vợ con khi thì về nhà ở Đ L. Khoảng tháng 03 năm 2019 một lần anh đi làm xe bị hỏng dọc đường anh phải ở lại giữa đường trông xe khoảng vài ba ngày mới về và không liên lạc về cho chị H  biết. Khi anh về nhà trọ thì chị H  đã cuốn quần áo của chị và cháu Phạm Trường T về nhà ngoại ở thôn Đ L, xã Đ L. Và chị H chuyển trường cho cháu từ trường tiểu học thị trấn C N về học Trường tiểu học Đ L mà không nói gì với anh và làm đơn ly hôn anh luôn. Anh C trình bày anh vẫn thương yêu chị H và không bao giờ bỏ vợ, bỏ con nên anh không đồng ý ly hôn. Nếu chị H cứ cương quyết ly hôn thì anh C có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung không yêu cầu cấp dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS và thuộc thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS. Thẩm phán, thư ký và HĐXX đã thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định, trình tự của Bộ Luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Chị Hà Thị H  và anh Phạm Văn C  tự do tìm hiểu và tự nguyện lấy nhau, đủ điều kiện đăng ký kết hôn nhưng chỉ tổ chức cưới theo phong tục tập quán về chung sống với nhau từ năm 2001 đến nay và không đăng ký kết hôn. Cuộc sống chung của chị H và anh C không phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng.

Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 14; Khoản 2 điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình. Không công nhận quan hệ giữa chị Hà Thị H và anh Phạm Văn C là vợ chồng.

Về con chung: Chị Hà Thị H và anh Phạm Văn C có 02 con chung.

Chị H và anh chung không thỏa thuận được với nhau về việc nuôi con chung. Nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung của anh chị là chính đáng. Để đảm  bảo quyền chăm sóc nuôi dưỡng con chung của các đương sự và xét điều kiện thực tế của anh chị và hai cháu. Hội đồng xét xử giao cháu Phạm Văn H  sinh ngày 21/4/2003 cho anh Phạm Văn C trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên và giao cháu Phạm Trường T sinh ngày 02/10/2012 cho chị Hà Thị H  trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên.

Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.

Về tài sản và công nợ: Chị Hà Thị H  và anh Phạm Văn C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 BLTTDS, điểm a khoản 5 Điều 27, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, chị Hà Thị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.  Khoản 1 Điều 14; Khoản 2 điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

Không công nhận quan hệ giữa chị Hà Thị H và anh Phạm Văn C là vợ chồng.

2. Về con chung: Căn cứ Điều 15; Điều 58; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Giao cháu Phạm Văn H sinh ngày 21/4/2003 cho anh Phạm Văn C  trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên. Giao cháu Phạm Trường T  sinh ngày 02/10/2012 cho chị Hà Thị H  trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên.

Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.

Chị Hà Thị H  và anh Phạm Văn C có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Điểm a khoản 5 Điều 27, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, Chị Hà Thị H  phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị H  đã nộp theo biên lai thu số: AA/2017/0002834 ngày 18 tháng 03 năm 2019 (chị Hiền đã nộp đủ).

Án sơ thẩm có mặt các đương sự, các đương sự có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HNGĐ-ST ngày 25/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:50/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bá Thước - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về