Bản án 51/2017/HNGĐ-ST ngày 16/06/2017 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA 

BẢN ÁN 51/2017/HNGĐ-ST NGÀY 16/06/2017 VỀ LY HÔN

Ngày 16 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 709/2016/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 12 năm 2016 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2017/QĐXX-ST ngày 12/5/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 53/QĐHPT-ST ngày 30/5/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn T. K. T. - sinh năm: 1991

Nơi cư trú: 09, T. Th, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt

2. Bị đơn: Ông Đỗ V. T. - sinh năm: 1989

Nơi cư trú: tổ dân phố K, phường N, thị xã H, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn T. K. T trình bày: Bà và ông Đỗ V. T. đăng ký kết hôn năm 2010 tại Ủy ban nhân dân phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vợ chồng bà có 03 con chung là Đỗ T. Đ, sinh ngày 19/10/2010, Đỗ M. H, sinh ngày 14/11/2013 và Đỗ H. T, sinh ngày 20/4/2015. Quá trình chung sống, ông T thường xuyên nhậu nhẹt, bài bạc đánh đập vợ con lại còn ghen tuông vô cớ; thiếu trách nhiệm nghĩa vụ với gia đình, xúc phạm danh dự bà nhiều lần. Mặc dù bà đã khuyên giải nhưng ông T không thay đổi nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và đã ly thân từ năm 2015. Nay bà không còn tình cảm với ông T nên yêu cầu ly hôn với ông T. Về con chung, bà yêu cầu nuôi 03 con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Đỗ V. T được triệu tập nhưng vắng mặt nên không lấy được lời trình bày:

Tại phiên tòa, Đại diên viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở vì tình cảm của bà T đối với ông T không còn, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung, nguyên đơn bà T yêu cầu được nuôi con chung 03 con chung là Đỗ T. Đ, Đỗ M. H và Đỗ H. T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy hiện tại các cháu còn nhỏ đang được bà T chăm sóc nuôi dưỡng nên đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà T là phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về tài sản chung, bà T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã nhiều lần triệu tập lấy lời khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đồng thời tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông T cố tình vắng mặt để giải quyết vụ án. Vì vậy, áp dụng Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Bà Nguyễn T. K. T yêu cầu được ly hôn với ông Đỗ V. T nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về việc “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân:: Bà Nguyễn T. K. T và ông Đỗ V. T tự nguyện đăng ký kết hôn năm 2010 và được Ủy ban nhân dân phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 103 ngày 31/8/2010 nên Tòa công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T là hợp pháp. Theo lời trình bày của nguyên đơn, ông Tâm thường xuyên nhậu nhẹt, bài bạc đánh đập vợ con lại còn ghen tuông vô cớ, thiếu trách nhiệm nghĩa vụ với gia đình, xúc phạm danh dự bà. Vợ chồng bà đã ly thân, không quan tâm và không còn tình cảm với nhau. Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà Nguyễn T. K. T và ông Đỗ V. T thể hiện trong “ quá trình chung sống ông T thường xuyên hay rượu chè cờ bạc nên vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn và không sống chung với nhau”. Ông T đã được triệu tập đến tòa để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình nhưng vẫn không có mặt cũng cho thấy ông T không mong muốn đoàn tụ gia đình.

Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm của bà T không còn đối với ông T, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được là có cơ sở theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Nguyễn T. K. T.

[3.2] Về con chung: Bà Nguyễn T. K. T yêu cầu được nuôi 03 con chung là Đỗ T. Đ, sinh ngày 19/10/2010, Đỗ M. H, sinh ngày 14/11/2013 và Đỗ H. T, sinh ngày 20/4/2015 không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau ly hôn là quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và để đảm bảo cho các cháu có đủ điều kiện tốt. Ông T không có mặt tại Tòa án để thực hiện quyền yêu cầu về việc nuôi con chung là tự từ bỏ quyền yêu cầu được nuôi con của mình. Bên cạnh đó, bà T hiện là người trực tiếp nuôi các cháu. Do vậy, căn cứ vào các Điều 58; 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao 03 con chung cho bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp và bảo đảm được quyền lợi cho các cháu là hợp lý

[3.3] Về tài sản chung: Bà Thanh không yêu cầu tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện được ly hôn và nuôi con chung của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận nên đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Quan điểm nói trên của đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5] Về án phí: Bà Nguyễn T. K. T phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Căn cứ Nghị quyết án phí và lệ phí tòa án 326/2016/UBTVQH14.
Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều 264; Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
Tuyên xử: 

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Nguyễn T. K. T: Bà Nguyễn T. K. T được ly hôn với ông Đỗ V. T.

2. Về con chung: Giao các cháu là Đỗ T. Đ - sinh ngày 19/10/2010, Đỗ M. H - sinh ngày 14/11/2013 và Đỗ H. T - sinh ngày 20/4/2015 cho bà Nguyễn T. K. T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Ông T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí: Bà Nguyễn T. K. T phải nộp án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 200.000đ nhưng được trừ vào 200.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0012937 ngày 12/12/2016 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2017/HNGĐ-ST ngày 16/06/2017 về ly hôn

Số hiệu:51/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về