Bản án 51/2017/HNGĐ-ST ngày 25/09/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON TUM, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 51/2017/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 25/9/2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh KonTum, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:312/2017/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2017, về việc tranh chấp "Xin ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2017/QĐST- HNGĐ ngày 31/8/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 489/2017/QĐST- HNGĐ ngày 15/9/2017, giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Nguyễn Việt T, sinh năm 1992. Có mặt

-Bị đơn: Anh Võ Quốc H, sinh năm 1993.Vắng mặt

Cùng địa chỉ: Đường T, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/7/2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Việt T trình bày:

Chị Nguyễn Việt T và anh Võ Quốc H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 17/9/2015 tại Ủy ban nhân dân phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc; Vì lý do, anh H không lo làm ăn, đi chơi với bạn bè cả ngày đêm, không có trách nhiệm với gia đình, nhiều lần đánh đập vợ thương tích, có lần gây thương tích nặng phải nhập viện điều trị. Vì gia đình tôi cố gắng chịu đựng để anh H có thời gian thay đổi nhưng càng ngày càng trầm trọng hơn. Một lần đưa đơn ly hôn, anh hứa sẽ đi làm, có trách nhiệm với vợ con nhưng mấy ngày rồi vẫn tiếp tục xảy ra. Kể từ tháng 3/2017 vợ chồng sống ly thân và đưa đơn ly hôn, anh H đến nơi tôi ở đánh đập tôi, đập điện thoại và đe dọa tính mạng của tôi. Tôi quá mệt mỏi với cuộc sống vợ chồng, tình cảm vợ chồng không còn, mong muốn được ly hôn để ổn định cuộc sống.

Con chung: Có một con chung là Võ Thanh Kiều A, sinh ngày 26/9/2015; Con chung hiện đang ở cùng tôi, nguyện vọng được nuôi con và đề nghị anh Võ Quốc H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bị đơn anh Võ Quốc H đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn với chị Nguyễn Việt T, nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do. Tòa án đã tiến hành giao cho mẹ đẻ anh H, là người cùng cư trú với bị đơn các văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án không có gì sai phạm. Nguyên đơn chị Nguyễn Việt T cung cấp tài liệu chứng cứ và tham gia tố tụng đúng quy định của pháp luật việc chấp hành pháp luật, bị đơn anh Võ Quốc H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không gửi ý kiến đến Tòa, từ bỏ quyền của mình, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn đúng quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum về việc giải quyết vụ án:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là quan hệ tranh chấp ly hôn, nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thành phố KonTum theo quy định của khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Việt T và anh Võ Quốc H đăng ký kết hôn ngày 17/9/2015 tại UBND phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum nên hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T là có căn cứ.

- Về nuôi con chung: Chị T đề nghị được nuôi con chung và yêu cầu anh H phải cấp dưỡng mỗi tháng 1.000.000 đồng. Chị T có công việc ổn định và cháu A còn nhỏ nên giao con cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp; về trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung, là nghĩa vụ chung của bố, mẹ nên buộc anh H phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

-Về tài sản chung: Chị T không đề nghị Tòa án giải quyết. Vì vậy không xem xét giải quyết.

-Về án phí: Đương sự phải chịu án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Chị Nguyễn Việt T và anh Võ Quốc H đều có nơi cư trú tại thành phố Kon Tum, yêu cầu ly hôn của chị T là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum quy định tại Điều 35, Điều 39 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015. Bi đơn anh Võ Quốc H đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không lý do, Tòa án xét xử vắng mặt anh Huy theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Chị Nguyễn Việt T và anh Võ Quốc H đăng ký kết hôn ngày 17/9/2015 tại Ủy ban nhân dân phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum. Chị Nguyễn Việt T và anh Võ Quốc H đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, không vi phạm điều kiện kết hôn, do đó quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Việt T và anh Võ Quốc H là hôn nhân hợp pháp.

 [3] Chị Nguyễn Việt T và anh Võ Quốc H sau khi kết hôn và chung sống thường xuyên xảy ra những bất đồng về quan điểm sống, thiếu sự quan tâm, chăm sóc, chia sẻ của anh H dẫn đến vợ chồng bất hòa xảy ra. Tại biên bản xác minh tại gia đình bị đơn và địa phương, anh H nhiều lần đánh đập chị T phù hợp với chứng cứ thương tích do chị T cung cấp. Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh H đến Tòa để hòa giải vợ chồng đoàn tụ nhưng anh H không thể hiện quan điểm, bỏ mặc việc xin ly hôn của chị T, đều đó anh H không mong muốn níu kéo tình cảm vợ chồng làm cho hôn nhân càng trầm trọng hơn, đời sống chung không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T là phù hợp quy định tại Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [4]Về con chung: Có một con chung là Võ Thanh Kiều A, sinh ngày 26/9/2015, hiện tại con chung đang được chị Nguyễn Việt T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Xét thấy, trong thời gian sống ly thân cháu Võ Thanh Kiều A sống cùng chị T, cuộc sống của cháu hiện đang ổn định, và cháu còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ hơn, vì vậy cần thiết tiếp tục để cháu A sống cùng chị T là phù hợp.

 [5]Chị Nguyễn Việt T yêu cầu anh Võ Quốc H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng1.000.000 đồng. Xét thấy, trách nhiệm nuôi dưỡng con chung Võ Thanh Kiều A là trách nhiệm chung của cả chị T và anh H, căn cứ vào chi phí nuôi con bình quân mỗi tháng 2.000.000 đồng như chị T đã đưa ra thì anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Võ Thanh Kiều A là 1.000.000 đồng/ tháng là có cơ sở chấp nhận.

 [6]Về tài sản chung:

Không ai yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[7]Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 144, 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội,chị Nguyễn Việt T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, anh Võ Quốc H phải chịu án phí về nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 và khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chấp nhận đơn khởi kiện về việc tranh chấp“Xin ly hôn và nuôi con ”của chị Nguyễn Việt T đề ngày 07/7/2017.

Xử:

- Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Việt T và anh Võ Quốc H.

- Về nuôi con chung:

Giao con chung Võ Thanh Kiều A, sinh ngày 26/9/2015 cho chị Nguyễn Việt T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con đủ 18 tuổi.

Anh Võ Quốc H cấp dưỡng nuôi con Võ Thanh Kiều A, sinh ngày 26/9/2015 mỗi tháng 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), thời gian cấp dưỡng nuôi con kể từ ngày xét xử cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Việc cấp dưỡng nuôi con được thi hành ngay, mặc dù bản án có thể bị kháng cáo, kháng nghị.

Anh Võ Quốc H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con không ai được cản trở. Không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Căn cứ khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

Kể từ ngày chị Nguyễn Việt T có đơn yêu cầu thi hành án về khoản tiền cấp dưỡng mà anh Võ Quốc H chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 144; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 6; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Chị Nguyễn Việt T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số 0000670 ngày 21/7/2017 của Chi cục thi hanh án dân sự thành phố KonTum; chị T đã nộp đủ án phí.

Anh Võ Quốc H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ Điều 271; Điều 272 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (25/9/2017). Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2017/HNGĐ-ST ngày 25/09/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:51/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về