Bản án 51/2018/HS-ST ngày 28/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 51/2018/HS-ST NGÀY 28/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 51/2018/HSST ngày 12 tháng 9 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2018/QĐXXST - HS ngày 14 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H (C), sinh năm: 1985 tại TN;

Nơi cư trú: Tổ 1, ấp BN, xã TL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1951 và bà Lương Thị T, sinh năm: 1956; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị H, sinh năm: 1986 (Đã ly hôn) có 01 con chung sinh năm 2007;

Tiền sự: Không. Tiền án: 01 tiền án.

- Ngày 02/6/2016 bị Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 38/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/6/2017.

Nhân thân:

+ Ngày 28/6/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 03 năm tù giam về tội “Giao cấu với trẻ em” theo bản án sơ thẩm số 118/HSST.

+ Ngày 21/8/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng” tại bản án số 16/2008/HSST.

+ Ngày 07/12/2010 bị Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 03 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 71/2010/HS- ST.

+ Ngày 20/7/2015 bị Công an xã TL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo quyết định số 48/QĐ – XPVPHC.

Bị bắt, tạm giam ngày: 23/5/2018. “Bị cáo có mặt”.

Bị hại: Bà Phan Thị Kiều H, sinh năm: 1959; nơi cư trú: Tổ 6, ấp 5, xã Hòa B, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. “Vắng mặt”

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Nguyễn Quang N, sinh năm: 1982; nơi cư trú: Số 34, ấp 8, xã SR, huyện CM, tỉnh ĐN. “Vắng mặt”

Người làm chứng:

+ Ông Phan Hòa B, sinh năm: 1982; nơi cư trú: Tổ 6, ấp 5, xã HB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. “Vắng mặt”

+ Bà Phan Thị Kim P, sinh năm: 1983; nơi cư trú: Tổ 6, ấp 5, xã HB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Văn H đến ở nhờ bà Phan Thị Kiều H là mẹ của Phan Hòa B tại tổ 6, ấp 5, xã Hòa B, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để đi phụ hồ, do không có phương tiện đi lại nên bà H cho bị cáo mượn chiếc xe mô tô loại Atila biển số 60B1 – 024.35 làm phương tiện đi lại. Chiều ngày 20/5/2018 bị cáo cùng B đi chơi ở xã HB, huyện XM đến khoảng 18 giờ cùng ngày bị cáo mượn xe Atila về thăm nhà, B đồng ý và nhờ bị cáo về nhà mình cắm cơm giúp. Bị cáo điều khiển xe Atila chạy về nhà B cắm cơm, thấy trong phòng B có 01 máy tính bảng Ipad 4 của bà H đang sạc pin, thấy không có người, bị cáo nảy sinh ý định trộm máy tính bảng bán lấy tiền tiêu xài nên vào phòng lén lút lấy chiếc máy tính bảng rồi bỏ vào cốp xe Atila chạy đi. Ngày 21/5/2018 bị cáo mang máy tính bảng trộm được đến cửa hàng điện thoại KM thuộc ấp 9, xã SR, huyện CM, tỉnh ĐN bán với giá 3.000.000đ tiêu xài cá nhân. Đến sáng ngày 22/5/2018 Cơ quan điều tra mời bị cáo làm việc, tại cơ quan điều tra bị cáo đã thú nhận toàn bộ hành vi của mình như trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 35/KL-HĐĐG ngày 24/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện XM, kết luận tại thời điểm xảy ra vụ án giá trị thiệt hại tài sản đối với máy tính bảng Ipad 4, nhãn hiệu Apple màu trắng bạc 9,7 inch, bộ nhớ 32gb của bà Phan Thị Kiều H là 13.150.000đ.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố.

Bản cáo trạng số 52/CT - VKS - XM ngày 12/9/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện XM truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1, Điều 51, điểm h, khoản 1, Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 28 (Hai mươi tám) tháng tù đến 30 (Ba mươi) tháng tù;

- Bị cáo Nguyễn Văn H nói lời sau cùng: Bản thân bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn khai báo, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định truy tố: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện XM, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện XM, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đối chiếu với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và những người tham gia tố tụng khác cũng như những tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ là phù hợp. Theo đó xác định được rằng: Vào khoảng 18 giờ ngày 20/5/2018, tại nhà của bà Phan Thị Kiều H ngụ tại ấp 6, xã Hòa B, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị cáo Nguyễn Văn H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 máy tính bảng Ipad 4 có giá trị là 13.150.000đ (Mười ba triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).

Như vậy hành vi của bị cáo nêu trên có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ đó cho thấy bản cáo trạng số 52/CT-VKS -XM ngày 12 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện XM truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân. Bị cáo muốn có tiền tiêu xài nhanh chóng mà không phải lao động, bị cáo đã lén lút lợi dụng sơ hở của người khác để chiếm đoạt tài sản nhằm thu lợi bất chính, phục vụ nhu cầu của bản thân. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần (04 lần) bị kết án về nhiều tội ở các địa bàn khác nhau và đã đưa đi cải tạo giáo dục, nhưng bị cáo không sửa chữa bản thân mà tiếp tục cố ý phạm tội, thể hiện ý thức xem thường pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Tại bản án số 38/2016/HSST ngày 02/6/2016 bị Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/6/2017 chưa được xóa án tích mà còn thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, nên áp dụng điểm điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để cân nhắc giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Không ai có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 xe máy nhãn hiệu SYM, loại Atila, màu sơn bạc, biển số 60B1 – 024.35 mà bà H cho bị cáo mượn làm phương tiện đi lại, Cơ quan công an đã trả lại cho bà H (theo biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 29/6/2018) là đúng quy định của pháp luật.

- 01 Ipad 4, wifi 32gb, nhãn hiệu Apple 9,7 inch màu trắng bạc, sau khi trộm cắp được bị cáo đã bán cho cửa hàng điện thoại KM, sau đó chủ cửa hàng này đã bán lại cho một người không rõ lai lịch nên không thu hồi được. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1, Điều 173, điểm s, khoản 1, Điều 51, điểm h, khoản 1, Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn H 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 23/5/2018.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2018/HS-ST ngày 28/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:51/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về