Bản án 51/2019/HSST ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 51/2019/HSST NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 03 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 51/2019/TL-HSST ngày 28/02/2019 đối với các bị cáo:

1.Họ và tên: Nguyễn Thanh T

Giới tính: Nam Sinh năm: 1987

Nơi cư trú: 11 A Ngõ Y, phường V, quận Đ, Hà Nội

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Họ tên cha: Nguyễn Đôn H – Sinh: 1952; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Minh C – Sinh: 1959; Gia đình có 02 chị em, bị can là con thứ hai; Vợ: Phạm Thị Nh (đã ly hôn); Có 01 con, sinh năm 2010; Nhân thân: Năm 2013, Công an phường Văn Miếu bắt đi cai nghiện bắt buộc

Tạm giữ: 02/11/2018

Tạm giam: 11/11/2018 Số giam: Có mặt tại phiên tòa

2.Họ và tên: Hồ Thị Hồng N

Giới tính: Nữ Sinh năm: 1985

Nơi cư trú: 63B ngõ Đ, phường K, quận Đ, Hà Nội.

 Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Họ tên cha: Hồ Đức Th – Sinh: 1959 (Chết); Họ tên mẹ: Trần Thị D – Sinh: 1960; Gia đình có 02 anh em, bị can là con thứ hai; Có 03 con, lớn sinh năm: 2007, nhỏ sinh năm: 2016

Nhân thân: Chưa có tiền án, tiền sự. Tạm giữ: 02/11/2018 Thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giữ sang cấm đi khỏi nơi cư trú: 11/11/2018 (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 01/11/2018, tổ công tác Công an phường Cửa Đông tiến hành kiểm tra nhân khẩu tại nhà ngõ 4B phố Đường Thành, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau khi mở cửa nhà có 01 nam thanh niên (không xác định được nhân thân) bỏ chạy ra khỏi nhà. Kiểm tra tầng 2 phát hiện có 03 nam thanh niên và 02 nữ thanh niên, gồm: Nguyễn Thanh T, Hồ Thị Hồng N, Nguyễn Ngọc Th (sinh năm: 1976; trú tại: 8 ngõ 612 L T, quận BĐ, Hà Nội), Trần Vũ T1 (sinh năm: 1989; trú tại: 20 ngách 57 ngõ 238 tổ 18, quận T H, Hà Nội) và Hà Thị Hồng Th1 (sinh năm: 1995; trú tại : thôn D, T K, T S, Phú Thọ). Lúc này T khai nhận với Tổ công tác đã cùng N, T1, Th1, H sử dụng ma túy tổng hợp và tự nguyện lấy tại vị trí dưới gầm ghế nhựa (cạnh tủ lạnh) 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy bằng thủy tinh; tại vị trí sau máy giặt sát tường nhà có 01 túi ni lông (kích thước 3x6cm) đựng tinh thể màu trắng (T khai nhận đó là ma túy đá); tại vị trí trên đệm có 01 vỏ túi ni lông (kích thước 1x1,5cm). Ngoài ra, còn thu giữ của T 01 điện thoại Nokia 105 màu đen, kèm 02 sim số 0987.907.468 và 0934.457.005 (BL : 45); Thu giữ của N: 01 hộp giấy trắng (kích thước 6x7x2 cm), bên trong đựng 03 túi nilông (kích thước 1x1,5cm) đựng tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động kiểu dáng Samsung Galaxy J2 màu hồng, sim số 0964.128.324; 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng, không có sim (BL: 93); Thu giữ của Trần Vũ T1 01 điện thoại di động kiểu dáng Sam sung J2 màu đồng, kèm theo sim (BL: 131); Thu giữ của Hà Thị Hồng Th 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 8 plus màu trắng kèm theo sim (BL: 186); Thu giữ của Nguyễn Ngọc Th1: 01 điện thoại di động kiểu dáng Sam sung S6 màu bạc kèm theo sim, 01 điện thoại di động kiểu dáng Mimat màu trắng, kèm theo sim (BL: 150)

Tại bản giám định số 8508/KLGĐ-PC09 ngày 08/11/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông thu giữ của Nguyễn Thanh T là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 6,102 gam; 01 bộ cóong bằng thủy tinh và 01 vỏ túi nilông (kích thước 1x1,5cm) đều có dính ma túy loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng bên trong 03 túi ni lông thu giữ của Hồ Thị Hồng N đều là ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 1,117 gam Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thanh T khai nhận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 31/10/2018, T đến cổng Bệnh viện Việt Đức, Hà Nội mua của một đối tượng đàn ông (không rõ nhân thân) 05 túi ni lông đựng ma túy đá với giá 2.750.000 đồng.

Sau khi mua được ma túy, T mang về nhà tại ngõ 4B Đường Thành, quận Hoàn Kiếm cất giấu 01 túi ni lông (kích thước 3x6cm) tại vị trí sau máy giặt sát tường nhà, còn 04 túi ni lông (kích thước 1x1,5cm) T mang theo trong người. Khoảng 07 giờ ngày 01/11/2018, T gọi T1 và N đến nhà để cùng nhau sử dụng ma túy đá, T bỏ ra 04 túi ni lông đựng ma túy đá và 01 bộ cóong thủy tinh ở trên đệm giữa nhà. Sau đó có thêm đối tượng tên H (là bạn của N, không rõ nhân thân) đến và cùng sử dụng ma túy. Khoảng 17 giờ cùng ngày, T bảo N gọi Th1 đến sử dụng ma túy cùng, sau đó Th1 và bạn gái là Th đến rồi T, N, T1, H và Th1, cùng nhau sử dụng hết 01 túi ni lông ma túy đá, còn lại 03 túi ni lông ma túy đá. Khi tổ công tác Công an phường Cửa Đông đến kiểm tra nhân khẩu thì H ra mở cửa, hô to « mọi người cất đồ đi » và đã bỏ chạy thoát. Lúc này T cầm 01 bộ cóong thủy tinh cất giấu vào dưới gầm ghế nhựa, còn N đã cầm 03 túi ni lông đựng ma túy đá cho vào 01 hộp giấy trắng và chạy vào nhà vệ sinh cất giấu, trên đệm còn lại 01 vỏ túi ni lông. Khi tổ công tác yêu cầu kiểm tra, T và N đã tự nguyện lấy ma túy đá giao nộp cho tổ công tác. Việc T để 04 túi ma túy trên đệm để sử dụng nhưng không nói cho các đối tượng cùng sử dụng là cụ thể bao nhiêu, lúc đó T tự lấy 01 túi ra sử dụng thì các đối tượng cùng sử dụng, không biết các đối tượng sử dụng có biết ma túy để trên đệm không.

Hồ Thị Hồng N khai nhận khi đang đi cùng Trần Vũ T1 thì được Nguyễn Thanh T gọi đến nhà để cùng sử dụng ma túy đá. Tại nhà T, N nhận được điện thoại của bạn tên là H hỏi vay tiền, N bảo H đi đến nhà T để nói chuyện. Khi H đến nhà T thì cùng nhau sử dụng ma túy đá, rồi H đi về để đi làm. Đến chiều, N gọi cho Th1 đến nhà T nói chuyện. Khoảng 17 giờ, Th1 và Th đến nhà T, lúc này H cũng đi làm về và quay lại nhà T. Sau đó cùng nhau sử dụng hết 01 túi ma túy đá bằng 01 bộ cóong thủy tinh ở tại tầng 2 nhà T. Khi Công an đến kiểm tra nhân khẩu, thì có một người hô « cất đồ đi », H đã chạy thoát, còn N cầm 03 túi ma túy đá cho vào 01 hộp giấy trắng chạy vào nhà vệ sinh cất lên khay bếp ga. Khi thấy T đã tự nguyện giao nộp ma túy đá, N cũng đã tự nguyện giao nộp số ma túy đá cất giấu nêu trên. N không biết T cất giấu ma túy ở đâu, N cùng các đối tượng sử dụng ma túy nhà T nhưng không phải trả tiền cho T.

Lời khai của Trần Vũ T1, Nguyễn Ngọc Th1 và Hà Thị Hồng Th khai nhận phù hợp với lời khai của Nguyễn Thanh T và Hồ Thị Hồng N, ma túy do T mua và mời để sử dụng, T1 và N không góp tiền mua ma túy với T. Khi cơ quan Công an đến kiểm tra thì T1 thấy N cầm 03 túi ni lông đựng ma túy đá trên đệm cho vào 01 hộp giấy màu trắng và chạy vào nhà vệ sinh cất giấu, còn T cất giấu 01 bộ cóong dưới gầm ghế. Th1 và Th được N gọi đến nhà T, khi đến đã có T, N, T1 và H ở đó. Sau đó Th1 có sử dụng ma túy đá cùng mọi người, còn Th không sử dụng. Xét thấy Trần Vũ T, Nguyễn Ngọc Th1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an quận Hoàn Kiếm xử phạt hành chính đối với T và Th.

Đối với đối tượng đàn ông bán ma túy cho T và đối với đối tượng H, thoát chạy khi bị kiểm tra. Do không làm rõ được nhân thân, tiến hành rút list điện thoại không làm rõ được chủ thuê bao số điện thoại đối tượng H sử dụng nên Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Đối với đối tượng Hà Thị Th, không có hành vi đồng phạm với T và N, không sử dụng ma túy nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý và trả lại cho Th 01 điện thoại Iphone 8 Plus màu trắng kèm theo sim.

Tại bản cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 20/02/2019, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Nguyễn Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật Hình sự. Truy tố Hồ Thị Hồng N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tại phiên toà, các bị cáo khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra và công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị các cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị kết tội bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật Hình sự. Kết tội bị cáo Hồ Thị Hồng N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Áp dụng Điều 249 khoản 2 điểm g; Điều 51 khoản 1 điểm s; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T mức án từ 06 năm 06 tháng tù đến 07 bảy năm tù. Áp dụng Điều 249 khoản 1 điểm c; Điều 51 khoản 1 điểm s; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Hồ Thị Hồng N mức án từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù. Tịch thu tiêu hủy 01 túi ni lông bên trong có chứa ma túy loại Methamphetamine trọng lượng 5,990 gam(sau khi đã trừ đi 0,102 gam lấy mẫu giám định) thu giữ của Nguyễn Thanh T; 01 hộp giấy (kích thước 6 x 7 x 2 cm)bên trong chứa 03 túi nilon kích thước 1x1,5 cm chứa ma túy loại Methamphetamine tổng trọng lượng 1,028 gam( sau khi đã trừ đi 0,089 gam lấy mẫu giám định) thu giữ của Hồ Thị Hồng N; 03 sim điện thoại đã cũ; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy bằng thủy tinh; 01 vỏ túi nilong(kích thước 1 x 1,5cm). Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại kiểu dáng samsung Galaxy J2 màu; 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng thu giữ của Hồ Thị Hồng N; 01 điện thoại Nokia thu giữ của T

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thanh T và bị cáo Hồ Thị Hồng N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng những tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đồng thời căn cứ vào bản Kết luận giám định số 8508/KLGĐ-PC09 ngày 08/11/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông thu giữ của Nguyễn Thanh T là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 6,102 gam; Tinh thể màu trắng bên trong 03 túi ni lông thu giữ của Hồ Thị Hồng N đều là ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 1,117 gam. Từ đó có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 17 giờ 15 phút ngày 01/11/2018, tại tầng 2 ngõ 4B phố Đường Thành, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; các đối tượng Nguyễn Thanh T đã có hành vi Tàng trữ 7,219 gam ma túy loại Methampheamine, Hồ Thị Hồng N đã có hành vi Tàng trữ 1,117 gam ma túy loại Methaphetamine và bị phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo hồ Thị Hồng N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân của bị cáo: Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự.

Hành vi tàng trữ trái phép 7,219 gam ma túy loại Methampheamine của Nguyễn Thanh T và hành vi Tàng trữ trái phép 1,117 gam ma túy loại Methaphetamine của Hồ Thị Hồng N là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Các bị cáo đều đã trưởng thành đáng lẽ phải hiểu được tác hại của việc sử dụng ma túy, tuy nhiên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội lần này. Xét thấy, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù giam cách ly bị cáo trong một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo cũng như phòng ngừa chung. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị các cáo khai báo thành khẩn nên cần áp dụng điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Các bị cáo không nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử hợp pháp Về tang vật: Áp dụng các Điều 106 BLTTHS; Điều 46, 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 túi ni lông bên trong có chứa ma túy loại Methamphetamine trọng lượng 5,990 gam(sau khi đã trừ đi 0,102 gam lấy mẫu giám định) thu giữ của Nguyễn Thanh T; 01 hộp giấy (kích thước 6 x 7 x 2 cm)bên trong chứa 03 túi nilon kích thước 1x1,5 cm chứa ma túy loại Methamphetamine tổng trọng lượng 1,028 gam( sau khi đã trừ đi 0,089 gam lấy mẫu giám định) thu giữ của Hồ Thị Hồng N; 03 sim điện thoại đã cũ; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy bằng thủy tinh; 01 vỏ túi nilong(kích thước 1 x 1,5cm). Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại kiểu dáng samsung Galaxy J2 màu hồng; 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng thu giữ của Hồ Thị Hồng N; 01 điện thoại Nokia thu giữ của T Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Nguyễn Thanh T, Hồ Thị Hồng N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng:

+ Điểm g khoản 2 điều 249, Điều 38; điểm s khoản 1Điều 51, Bộ luật hình sự; (đối với nguyễn Thanh T).

+ Điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự(đối với Hồ Thị Hồng N)

+ Điều 106, 135, 331, 333 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 46, 47 Bộ luật hình sự

+ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án,

3. Xử phạt:

- Nguyễn Thanh T 05 (năm) năm 06(sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 02/11/2018.

- Hồ Thị Hồng N 18(mười tám) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ than giam tạm giữ từ ngày 02 tháng 11 năm 2018 đến ngày 11 tháng 11 năm 2018.

Không áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo theo khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự.

4. Tang vật: Tịch thu tiêu hủy 01 túi ni lông bên trong có chứa ma túy loại Methamphetamine trọng lượng 5,990 gam(sau khi đã trừ đi 0,102 gam lấy mẫu giám định) thu giữ của Nguyễn Thanh T; 01 hộp giấy (kích thước 6 x 7 x 2 cm)bên trong chứa 03 túi nilon kích thước 1x1,5 cm chứa ma túy loại Methamphetamine tổng trọng lượng 1,028 gam( sau khi đã trừ đi 0,089 gam lấy mẫu giám định), thu giữ của Hồ Thị Hồng N; 03 sim điện thoại đã cũ; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy bằng thủy tinh; 01 vỏ túi nilong(kích thước 1 x 1,5cm). Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại kiểu dáng samsung Galaxy J2 màu hồng; 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng thu giữ của Hồ Thị Hồng N; 01 điện thoại Nokia thu giữ của T Tang vật hiện giữa tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm theo biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 21/3/2019

5. Án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo T, bị cáo N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2019/HSST ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:51/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về