TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 517/2017/HSPT NGÀY 25/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 25 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 500/2017/HSPT ngày 11/9/2017 đối với bị cáo Lê Ngọc V và Trần Vĩnh M do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2017/HSST ngày 27/07/2017 của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Các bị cáo kháng cáo:
1. Trần Vĩnh M; giới tính: nam; sinh năm 1968 tại Thành phố Hồ Chí Minh; dân tộc: Hoa; quốc tịch: Việt Nam; trú tại: đường A1, Phường A2, Quận A3, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: đường A4, Phường A5, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 01/12; con ông Trần Tích B (chết năm 2016) và con bà Lâm D; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và 02 người con (con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2011); tiền án, tiền sự: không có;
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 15/9/2016 (có mặt tại phiên tòa).
2. Lê Ngọc V; giới tính: nam; sinh năm: 1965 tại Tiền Giang; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; hộ khẩu thường trú: đường A6, Phường A5, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: đường A7, Phường A2, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: chạy xe ôm; trình độ học vấn: 02/12; con ông Lê Văn T (chết) và bà Trần Thị X (chết); hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ (đã ly hôn) và 04 người con (con lớn nhất sinh năm 1988, con nhỏ nhất sinh năm 1996); tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 15/9/2016 (có mặt tại phiên tòa).
- Người phiên dịch cho bị cáo Trần Vĩnh M: Bà Lầu Diễm N, làm việc tại Công ty TNHH Dịch thuật Phương Tây, địa chỉ số Đường A8, Phường A2, quận A9, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt tại phiên tòa).
NHẬN THẤY
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 04 giờ 20 phút ngày 15/9/2016 tại bên hông nhà số C1 đường A6, Phường A5, Quận A, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an Quận 11 phát hiện Lê Ngọc V đang giao ma túy cho Nguyễn Ngọc Bích L và V nhận 1.000.000 đồng của L. Trên đường đi về thì L bị bắt giữ, đồng thời thu giữ của L 01 gói nylon chứa chất bột màu vàng, qua giám định có khối lượng 0,5089g, loại Ketamine. Về phía V, sau khi nhận tiền của L thì đã đến nhà đường A4, Phường A5, Quận A để đưa số tiền này cho Trần Vĩnh M thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 11 đã bắt giữ.
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 11 tiến hành khám xét nơi ở của Trần Vĩnh M tại nhà số C2 đường A4, Phường A5, Quận A thu giữ: 02 gói tinh thể không màu qua giám định có khối lượng 0,9859g, loại Methamphetamine; 03 gói nylon chứa lá cây nhuyễn có khối lượng 0,3610g, là cần sa; 01 viên nén được ép kín vào nylon có khối lượng 0,4587g, không tìm thấy các ma túy thường gặp; 01 gói nylon chứa chất bột màu vàng có khối lượng 0,1827g, loại Nimetazepam cùng 02 xe mô tô, 17.800.000 đồng và một số vật dụng khác.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc Bích L khai rằng do cần sử dụng ma túy nên khoảng tháng 8/2016, L đã mua ma túy của M lần đầu tại khách sạn B1, Phường B3, Quận A. Đến ngày 15/9/2016 L lại điện thoại cho Trần Vĩnh M để mua 01 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng thì M đồng ý và hẹn L ra ngã tư A6– A4 gặp người của M để lấy ma túy. Khi L đến nơi hẹn thì V đưa ma túy, đồng thời L đưa 1.000.000 đồng cho V, và sau đó thì bị bắt.
Lê Ngọc V khai nhận: V được M thuê đi mua và bán ma túy cho những người nghiện từ tháng 7/2016, mỗi lần đi giao ma túy thì V trả công cho M từ 30.000 đồng đến 50.000 đồng. Vào ngày 15/9/2016, M kêu V đi giao ma túy chomột người phụ nữ tên P (không rõ lai lịch) tại đường B4, B5, Quận A, sau đó V tiếp tục giao ma túy cho L rồi quay về nhà đưa tiền cho M thì bị bắt. Đồng thời cũng trong ngày 15/9/2016, V còn đi lấy ma túy của một người phụ nữ tại đường B2, Quận A3 để đem về cho M. Trước đó, V đã 02 lần giao ma túy cho một người phụ nữ không rõ lai lịch. Tổng cộng V đã đi giao ma túy cho M được 04 lần, hưởng lợi được khoảng 200.000 đồng.
Trần Vĩnh M khai nhận: Vào khoảng 4 giờ ngày 15/9/2016 L gọi điện thoại cho M để mua 01 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng nên M kêu V đi giao ma túy cho L tại ngã tư A6– A4, khi V về đến nhà M để giao tiền cho M thì bị bắt giữ. Ngoài ra cùng ngày, M còn nói V đi giao ma túy cho một người phụ nữ tên P tại hẻm B4, đường B5, Quận A và đi lấy ma túy của một người phụ nữ cho M tại đường B2, Quận A3. M trả công cho V mỗi lần giao ma túy từ 30.000 đồng đến 50.000 đồng, thỉnh thoảng là 100.000 đồng. M bắt đầu bán ma túy từ tháng 7/2016, mỗi lần bán M thu lợi được 200.000 đồng, tổng số tiền thu lợi tính đến ngày bị bắt được khoảng 800.000 đồng. M khai nhận số ma túy thu tại nhà của M là do Kim Anh K cho M để sử dụng nhưng M đem bán để hưởng lợi. Tuy nhiên K lại khai là có đến nhà của M chơi 02 lần và K có hùn 200.000 đồng để M đi mua ma túy về sử dụng chứ K không cho M ma túy.
Theo Cáo trạng số 47/CTr-VKS ngày 22/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 đã truy tố bị cáo Trần Vĩnh M và Lê Ngọc V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Theo Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2017/HSST ngày 27/7/2017 của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Trần Vĩnh M, Lê Ngọc V phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Trần Vĩnh M 10 (mười) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/9/2016.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; Điểm p Khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Lê Ngọc V 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày15/9/2016.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 27/7/2017 Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 02/8/2017 cả hai bị cáo kháng cáo vì không đồng ý với tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy”, riêng bị cáo M còn kháng cáo vì mức án cấp sơ thẩm đã tuyên là quá nặng đối với bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Ngọc V khai nhận hành vi như nội dung cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu, còn bị cáo Trần Vĩnh M không thừa nhận hành vi của mình, tại phần tranh luận bị cáo M chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất của vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đã đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo V, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo M và sửa bản án hình sự sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo M từ 08 năm đến 09 năm tù.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo,
XÉT THẤY
Ngày 27/7/2017, Tòa án xét xử sơ thẩm, thì đến ngày 02/8/2017 các bị cáo làm đơn kháng cáo về việc không đồng ý với tội danh, riêng bị cáo M còn kháng cáo vì mức án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là quá nặng. Xét thấy đơn kháng cáo của các bị cáo là trong hạn luật định nên hợp lệ.
Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo:
Vào lúc 04 giờ 20 phút ngày 15/9/2016 tại bên hông nhà số 340C đường A6, Phường A5, Quận A, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an Quận 11 phát hiện Lê Ngọc V đang giao ma túy cho Nguyễn Ngọc Bích L và V nhận 1.000.000 đồng của L. Trên đường đi về thì L bị bắt giữ, đồng thời thu giữ của L 01 gói nylon chứa chất bột màu vàng, qua giám định có khối lượng 0,5089g, loại Ketamine. Về phía V, sau khi nhận tiền của L đã đến đường A4, Phường A5, Quận A để đưa số tiền này cho Trần Vĩnh M thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 11 bắt giữ.
Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 11 đã tiến hành khám xét nơi ở của Trần Vĩnh M tại đường A4, Phường A5, Quận A và thu giữ 02 gói tinh thể không màu qua giám định có khối lượng 0,9859g, loại Methamphetamine; 03 gói nylon chứa lá cây nhuyễn có khối lượng 0,3610g, là cần sa; 01 viên nén được ép kín vào nylon có khối lượng 0,4587g, không tìm thấy các ma túy thường gặp; 01 gói nylon chứa chất bột màu vàng có khối lượng 0,1827g, loại Nimetazepam cùng 02 xe mô tô, 17.800.000 đồng và một số vật dụng khác.
Đối với Nguyễn Ngọc Bích Lđã khai rằng do cần ma túy sử dụng nên vào khoảng tháng 8/2016, L đã mua ma túy của M 04 lần, nhưng sau đó Bích L khai chỉ mua ma túy của M 02 lần. Cụ thể, lần đầu L gọi điện thoại cho M để mua ma túy với số tiền 500.000 đồng. Lần này M giao ma túy tại khách sạn B1 trên đường B6, Phường B3, Quận A, nhưng M không lấy tiền. Lần thứ hai là vào ngày 15/9/2016 L lại điện thoại cho M để mua 01 gói ma túy với số tiền 1.000.000 đồng thì M đồng ý và hẹn L ra ngã tư A6– A4 để gặp người của M và lấy ma túy. Vào lúc 04 giờ 20 phút cùng ngày, L đến điểm hẹn thì gặp Lê Ngọc V và tại đây V đã giao ma túy còn L thanh toán 1.000.000 đồng cho V, sau đó thì L bị bắt.
Đối với Lê Ngọc V khai nhận: V được Trần Vĩnh M thuê đi nhận và giao ma túy từ tháng 7/2016, mỗi lần đi thì M trả công cho V từ 30.000 đồng đến 50.000 đồng. Vào ngày 15/9/2016, M kêu V đi nhận ma túy của một người phụ nữ tên P tại đường B2, Quận A3 rồi đem về cho M. Tiếp đến, V đi giao ma túy cho một người phụ nữ cũng tên P (không rõ lai lịch) tại đường B4, B5, Quận A nhưng do M yêu cầu nên V chỉ giao ma túy mà không nhận tiền. Đến khoảng 04 giờ 20 phút cùng ngày (15/9/2016) V tiếp tục giao ma túy cho L và nhận1.000.000 đồng rồi quay về nhà để đưa số tiền này cho M thì bị bắt giữ.
Đối với Trần Vĩnh M cũng khai nhận: Vào khoảng tháng 8/2016, L có điện thoại để mua ma túy với số tiền 500.000 đồng và M đã trực tiếp giao ma túy cho L tại Khách sạn B1 trên đường B6, Phường B3, Quận A nhưng do mới quen biết L nên muốn tạo lòng tin về sau, do đó không lấy tiền. Trong ngày 15/9/2016 M kêu V đi nhận ma túy của một người phụ nữ tên P tại đường B2, Quận A3 rồi đem về cho M. Tiếp đến, M kêu V đi giao ma túy cho một người phụ nữ cũng tên P (không rõ lai lịch) tại đường B4, B5, Quận A nhưng M yêu cầu V không nhận tiền. Đến khoảng 04 giờ 20 phút cùng ngày (15/9/2016) M nhờ V tiếp tục giao ma túy cho L và khi V quay về ném tiền vào nhà M thì đến khoảng 19 giờ cùng ngày M cũng bị bắt giữ.
Mặc dù M không thừa nhận có việc mua bán ma túy nhưng ngoài lời khai của M thì có lời khai của L và V cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định Trần Vĩnh M và Lê Ngọc V đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009. Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo Trần Vĩnh M và Lê Ngọc V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Về Lê Ngọc V trong ngày 15/9/2016 đã một lần đi nhận ma túy tại Quận A3 và hai lần đi giao ma túy tại Quận A như đã nêu ở trên. Còn Trần Vĩnh M ngoài việc vào ngày 15/9/2016 thông qua Lê Ngọc V để nhận và giao ma túy, thì trước đó chính M đã bán cho L số ma túy với giá 500.000 đồng tại khách sạn B1 nhưng do muốn tạo lòng tin với L về sau nên không lấy tiền. Mặc dù lần này M không lấy tiền của L nhưng xét về bản chất thì đã có sự mua bán ma túy giữa M và L.
Từ những phân tích trên, đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Trần Vĩnh M và bị cáo Lê Ngọc V đã thực hiện việc mua bán ma túy nhiều lần nên phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội nhiều lần”. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 để xét xử các bị cáo là có cơ sở.
Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc V có thái độ thật thà khai báo, ăn năn hối cải, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm p khoản 1 Điều 46 là đúng và tuyên phạt bị cáo V 07 năm tù (mức khởi điểm của khung hình phạt) là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo V.
Tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo M không thừa nhận hành vi của mình, khai báo quanh co và không biết ăn năn hối lỗi nên bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Mặc dù ở phiên tòa phúc thẩm bị cáo M cũng không xuất trình tình tiết nào mới để xem xét cho yêu cầu của bị cáo, tuy nhiên xét thấy bị cáo M có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội nên mức án 10 năm tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo là có phần nghiêm khắc.
Như vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của các bị cáo về phần tội danh, nhưng có cơ sở để giảm nhẹ một phần hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo M như đã nêu trên.
Lập luận trên đây là căn cứ để chấp nhận lời trình bày của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa hôm nay.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
Áp dụng Điều 241; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 248; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
QUYẾT ĐỊNH
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Ngọc V, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trần Vĩnh M và sửa bản án sơ thẩm.
Tuyên bố các bị cáo Trần Vĩnh M, Lê Ngọc V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009;
Xử phạt: Trần Vĩnh M 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/9/2016.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; Điểm p Khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009;
Xử phạt: Lê Ngọc V 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/9/2016.
- Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
+ Bị cáo Lê Ngọc V phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
+ Bị cáo Trần Vĩnh M không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 517/2017/HSPT ngày 25/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 517/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về