Bản án 52/2017/HSST ngày 04/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM SƠN – TỈNH NINH BÌNH 

BẢN ÁN 52/2017/HSST NGÀY 04/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2017/HSST ngày 15 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lại X T, sinh năm 1987. ĐKHKTT, chỗ ở: Xóm 4, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Trình độ văn hóa: 8/12;

Bố đẻ: Lại Văn T2, sinh năm 1958 (đã chết). Mẹ đẻ: Phạm Thị G, sinh năm 1953, hiện làm ruộng, hiện trú tại: Xóm 4, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; Vợ: Hoàng Thị D, sinh năm 1989 (đã ly hôn). Trú tại: xã K1, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. Con: có 01 con sinh năm 2009.

Tiền sự: Không; Tiền án: 02 tiền án.

Tại bản án số 18/2010/HSST ngày 07/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, Lại X T bị xử phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 138 BLHS. Ngày 28/10/2010, Lại X T đã nộp án phí hình sự sơ thẩm, ngày 29/4/2011 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

Tại bản án số 45/2014/HSST ngày 26/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, xử phạt Lại X T 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 138 BLHS, áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” và “phạm tội nhiều lần”; bị cáo đã thi hành xong phần hình phạt tù án phí hình sự và dân sự, chưa thi hành phần trách nhiệm dân sự.

Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Ninh theo lệnh tạm  giam  của  Cơ  quan  CSĐT  Công  an  thành  phố  Ninh  Bình  từ  ngày 13/09/2017. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

+ Ông Trịnh X K;  sinh năm 1951; trú tại: khối 3, TT. B, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt tại phiên tòa

+ Tạ Q T1 , sinh năm 1995; trú tại: thôn B, xã L, huyện Mê Linh, TP. Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Đinh Đức D1, sinh năm 1980; trú tại: số như 547, ®•êng N, ph•êng B, thành phố Ninh Bình , tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt tại phiên tòa

+ Anh Trần Đức C, sinh năm 1990;  trú tại: x· T, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt tại phiên tòa

+ Anh Mai Văn N, sinh năm 1985;  trú tại: tổ 3, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt tại phiên tòa

+ Anh Phạm Quý T3, sinh năm 1989;  trú tại: xã m 7, x· N, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Vắng mặt tại phiên tòa

NHẬN THẤY

Bị cáo Lại X T bị VKSND huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 31/7/2017, Lại X T điều khiển xe mô tô đến thị trấn Bình Minh, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình với mục đích tìm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày, T đếnnhà ông Trịnh X K(sinh năm 1951, ở khối 3, TT. Bình Minh, huyện Kim Sơn,tỉnh Ninh Bình). Quan sát thấy cửa tầng hai nhà ông K đang mở, cạnh cửa ra vào tầng hai có mái tôn bắt sắt nối với tường bao T dựng xe ngay cạnh cổng,bỏ dép trèo lên tường bao, leo lên mái tôn trèo qua lan can lên hành lang tầnghai. Thấy cửa phòng ngủ của ông K đang mở, T lẻn vào thấy vợ chồng ông Kđang nằm ngủ trên giường. Qua ánh đèn điện bên ngoài hắt vào, T quan sát thấy chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu vàng của ông K đang sạc ở trên ghế ghỗ kê sát giường ngủ. T đến chỗ sạc điện thoại, tay trái cầm điện thoại, tay phải rút sạc rồi cho vào túi quần bên trái. Sau đó T quay ra lan can tầng hai thì thấy cửa phòng ngủ của anh Tạ Quang T1 (sinh năm 1995, ở thôn B, xã L, huyện Mê Linh, TP. Hà Nội - Là người làm thuê cho gia đình ông K) đang mở, anh T1 đang ngủ, T vào phòng và lấy đi chiếc điện thoại Iphone 6 màu vàng của anh T1 đang để ở cạnh giường bỏ vào túi quần bên phải. Sau đó T tiếp tục đi theo cầu thang xuống tầng một và vào phòng khách nhà ông K. Tại đây T thấy có một túi xách treo trên tường sát cửa ra vào T lấy túi xách lục lọi nhưng không tìm thấy tài sản nên đã vứt túi xách trên nền nhà và theo đường cũ đi ra khỏi nhà ông K rồi lên xe đi về

Đến khoảng 6 giờ cùng ngày T cầm 02 điện thoại di động trộm cắp được đến cửa hàng điện thoại của anh Đinh Đức D1 (SN 1980, ở số nhà 547, đường N, phường B, TP. Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình) bán cho anh D1 chiếc điện thoại Iphone 6 với giá 1.000.000 đồng và chiếc điện thoại Iphone 7 Plus với giá 10.000.000 đồng. Tất cả số tiền bán điện thoại 11.000.000đ trên T đã tiêu sài hết, chưa giao nộp lại.

Sau khi mua 02 chiếc điện thoại trên anh D1 đã rao bán trên mạng Facebook. Ngày 01/8/2017 anh Trần Đức C (SN 1990, trú tại xã T, thành phố P, tỉnh Hà Nam) đến mua lại chiếc điện thoại Iphone 7 Plus của anh D1 với giá 14.000.000 đồng. Cùng ngày anh C bán lại chiếc điện thoại cho anh Mai Văn N (SN 1985, trú tại Tổ 3, phường  L, TP. P, tỉnh Hà Nam) với giá 15.300.000 đồng. Đến ngày 10/8/2017 thì anh N tiếp tục bán lại chiếc điện thoại trên cho anh Phạm Quí T3 (SN 1989, trú tại xóm 7, xã N, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định) với giá 14.600.000 đồng. Ngày 05/8/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện Kim Sơn đã thu giữ chiếc điện thoại Iphone 6 tại cửa hàng anh D1 và thu giữ chiếc điện thoại Iphone 7 Plus từ anh T3; sau đó đã trả lại 02 chiếc điện thoại trên cho ông K và anh T1. Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Dream của Lại X T dùng làm phương tiện để thực hiện tội phạm, T đã bán lại cho anh Vũ Văn Q với giá 3.500.000đ; Sau đó anh Q đã bán lại cho một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ nên không thu giữ để xử lý được.

Sau khi thực hiện trộm cắp tài sản ngày 31/7/2017 tại thị trấn Bình Minh, huyện Kim Sơn  Lại X T tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản tại địa bàn thành phố Ninh Bình bị Cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình khởi tố bị can và tạm giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại Cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình bị cáo tự khai nhận hành vi thực hiện trộm cắp tài sản thực hiện ngày 31/7/2017 tại gia đình ông Kim thị trấn Bình Minh, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.

Tại Kết luận định giá số 30/HĐ-ĐG ngày 23/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện Kim Sơn kết luận: 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng có giá trị còn lại là 15.200.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng có giá trị còn lại là 4.080.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Lại X T trộm cắp là 19.280.000 đồng (Mười chính triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng). Quá trình điều tra, Lại X T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số 54/CT-VKS ngày 13/11/2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Sơn đã truy tố bị cáo Lại X T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự; tình tiết định khung hình phạt “ Tái phạm nguy hiểm”

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Sơn rút một phần truy tố tại cáo trạng số 54/CT-VKS ngày 13/11/2017 từ điểm c khoản 2, Điều 138 xuống khoản 1, Điều 138 và  đề nghị HĐXX:

-Tuyên bố: Lại X T về tội “Trộm cắp tài sản”.

-Áp dụng khoản 1, Điều 138; điểm g, khoản 1, Điều 48; điểm o, p khoản 1, Điều 46 BLHS;  Xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thụ hình.

- Căn cứ khoản 1, 2 Điều 41; khoản 1, Điều 42 BLHS và các Điều  584, 585,  589  BLDS:  buộc  bị  cáo  phải  bồi  thường  cho  anh  Đinh  Đức  D1 11.000.000đ và truy thu số tiền 3.500.000đ bị cáo đã bán chiếc xe mô tô sử dụng làm phương tiện phạm tội mà có.

- Căn cứ quy định pháp luật để xử lý vật chứng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Lại X T khai nhận: đêm ngày 31/7/2017, Tiến điều khiển xe mô tô đến thị trấn Bình Minh, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình với mục đích tìm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày, T đến một nhà ở khối 3, TT. Bình Minh, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, sau này mới biết là nhà ông Trịnh X K. Quan sát thấy cửa tầng hai nhà ông Kim đang mở, cạnh cửa ra vào tầng hai có mái tôn bắt sắt nối với tường bao Tiến dựng xe ngay cạnh cổng, leo lên mái tôn trèo qua lan can lên hành lang tầng hai. Thấy cửa phòng ngủ của ông K đang mở, T lẻn vào thấy vợ chồng ông K đang nằm ngủ trên giường. Qua ánh đèn điện bên ngoài hắt vào, T quan sát thấy chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu vàng của ông K đang sạc ở trên ghế gỗ kê sát giường ngủ. T đến cầm điện thoại, rút sạc rồi cho vào túi quần;  Sau đó T quay ra lan can tầng hai thì thấy cửa phòng ngủ nơi anh Tạ Quang T1 là người làm thuê cho gia đình ông K đang mở, T vào phòng và lấy đi chiếc điện thoại Iphone 6 màu vàng của anh T1 đang để ở cạnh giường bỏ vào túi quần bên phải; tiếp theo T tiếp tục đi theo cầu thang xuống tầng một và vào phòng khách nhà ông K. Tại đây T thấy có một túi xách treo trên tường sát cửa ra vào T lấy túi xách lục lọi nhưng không tìm thấy tài sản nên đã vứt túi xách trên nền nhà và theo đường cũ đi về.

Đến khoảng 6 giờ cùng ngày T cầm 02 điện thoại di động trộm cắp được đến cửa hàng điện thoại của anh Đinh Đức D1 (SN 1980, ở số nhà 547, đường N, phường B, TP. Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình) bán cho anh D1 chiếc điện thoại Iphone 6 với giá 1.000.000 đồng và chiếc điện thoại Iphone 7 Plus với giá 10.000.000 đồng. Tất cả số tiền bán điện thoại trên T đã tiêu sài hết.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xem xét công khai tại phiên tòa hôm nay như: lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; đồng thời còn được chứng minh qua các tài liệu chứng cứ có trong vụ án như: biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá trong tố tụng hình sự.

Từ những chứng cứ đó, đã có đầy đủ cơ sở kết luận: rạng sáng ngày 31/7/2017 tại nhà ông Trịnh X K ở khối 3, thị trấn B, huyện K, tỉnh Ninh Bình, bị cáo T đã lén lút đột nhập vào phòng ngủ của vợ chồng ông K anh Tạ Quang T1 lấy đi của ông K 01 điện thoại Iphone 7 Plus trị giá 15.200.000 đồng và 01 điện thoại Iphone 6 trị giá 4.080.000 đồng của anh T1. Tổng giá trị tài sản Lại X T chiếm đoạt của ông Trịnh X K và anh Tạ Quang T1 là 19.280.000 đồng. Hành vi của bị cáo Lại X T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, hành vi đó của bị cáo cần được xử lý nghiêm

Tại phiên tòa Kiểm sát thay đổi quan điểm truy tố từ điểm c khoản 2, Điều 138 BLHS với tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm” xuống khoản 1, Điều 138  vấn đề này HĐXX thấy: Bản thân bị cáo có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” là bản án số 18/2010/HSST ngày 07/9/2010 và bản án số 45/2014/HSST ngày 26/12/2014 đều của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình xét xử; trong đó tại bản án số 45/2014/HSST ngày 26/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đã áp dụng hai tình tiết tăng nặng là “ phạm tội nhiều lần” và “tái phạm” đối với bị cáo. Tuy nhiên tại bản án số 45/2014/HSST ngày 26/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình và Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên Khánh đã căn cứ vào tiền án của bị cáo tại bản án số 18/2010/HSST ngày 07/9/2010 xác định cả 09 hành vi trộm cắp của bị cáo đã thực hiện từ năm 2012 đến 2014  trong đó có 06 hành vi trộm cắp tài sản có giá trị chưa đến 2.000.000đ đều cấu thành tội “ trộm cắp tài sản” và áp dụng tình tiết tăng nặng “ phạm tội nhiều lần” tại điểm g, khoản 1 Điều 48 BLHS nhưng cũng căn cứ bản án 18/2010/HSST ngày 07/9/2010 để xác định bị cáo thêm tình tiết “tái phạm”  là không phù hợp với quy định “những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng” tại khoản 2, Điều 48 BLHS; do đó việc căn cứ vào bản án 18/2010/HSST ngày 07/9/2010 để xác định bị cáo có tình tiết “tái phạm” khi đã sử dụng tình tiết đã bị kết án của bị cáo để định tội cho 06 hành vi trộm cắp chưa đủ về lượng của bị cáo là không phù hợp với quy định của pháp luật. Áp dụng tình tiết có lợi cho bị cáo, không làm xấu tình trạng của bị cáo Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Sơn rút truy tố từ khoản 2 Điều 138 BLHS xuống khoản 1 điều 138 BLHS là có căn cứ.

Bị cáo đã có tiền án về tội trộm cắp chưa được xóa án tích  nay tiếp tục phạm tội trộm cắp là   tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm g, khoản 1, điều 48 BLHS; xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, HĐXX thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội nhằm giáo dục cải tạo bị cáo cũng như răn đe, phòng ngừa chung. Khi lượng hình xét thấy: tại phiên tòa thành khẩn khai báo, tự thú về hành vi phạm tội của mình là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm o, p khoản 1, Điều 46 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: số tiền bán chiếc điện thoại Iphone 7 Plus

Anh Mai Văn N đã hoàn trả số tiền 14.600.000 đồng có được do bán điện thoại Iphone 7 Plus cho anh Phạm Quí T3; anh Trần Đức C đã trả cho anhMai Văn N số tiền 15.300.000đ có được do bán điện thoại Iphone 7 Plus; anh Đinh Đức D1 đã hoàn trả số tiền 14.000.000 đồng mà anh C đã mua chiếc điện thoại Iphone 7 Plus của anh D1. Anh D1 đề nghị bị cáo Lại X T bồi thường số tiền 11.000.000 đồng là tiền anh D1 bỏ ra mua điện thoại Iphone 7 Plus do T trộm cắp; số tiền bán điện thoại cho anh D1 mà có bị cáo đã tiêu xài hết vì vậy cần buộc bị cáo phải trả số tiền 11.000.000đ cho anh D1 là phù hợp.

Về vật chứng của vụ án:  02 chiếc điện thoại di động bị Lại X T chiếm đoạt, quá trình điều tra cơ quan CSĐT Công an huyện Kim Sơn đã thu giữ và trả lại cho chủ sở hữu là ông Trịnh X K và anh Tạ Quang T1. Ông Kim và anh T1 đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì; việc trả lại tài sản trên cho người bị hại là phù hợp HĐXX không xem xét lại.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Dream của Lại X T dùng làm phương tiện để thực hiện tội phạm, T đã bán lại cho anh Vũ Văn Q , sau đó anh Q đã bán lại cho một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ nên không thu giữ để xử lý được vì vậy cần truy thu số tiền 3.500.000đ bán xe của bị cáo để sung quỹ nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật là 200.000đ và 550.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Lại X T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

- Áp dụng khoản 1, Điều 138; điểm o, p, khoản 1, Điều 46; điểm g, khoản 1, Điều 48 Bộ luật hình sự

- Xử phạt bị cáo Lại X T 27 (hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1, 2, Điều 41; khoản 1 Điều 42 BLHS; Điều  584, 585, 589 BLDS:

- Buộc bị cáo Lại X T phải bồi thường cho anh Đinh Đức D1 số tiền 11.000.000đ.

-Truy thu từ bị cáo Lại X T số tiền 3.500.000đ sung ngân sách.

3. Án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 về  án phí, lệ phí tòa án buộc bị cáo Lại X T phải nộp 200.000đ  án phí Hình sự sơ thẩm và 550.000đ án phí Dân sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thihành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

354
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2017/HSST ngày 04/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:52/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về