Bản án 52/2018/HNGĐ-ST ngày 25/05/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 52/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 25 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số : 48/2017/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2017 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2501/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2017; Quyết định hoãn phiên tòa số 182/2018/QĐST-HNGĐ ngày 22/01/2018 và Thông báo về thời gian mở lại phiên tòa số 883/TB-TA ngày 26/4/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Hoài A, sinh năm 1990; nơi cư trú: Số 49/214 B, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh D, sinh năm 1974; nơi cư trú: Korea; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn nộp ngày 04/4/2017 và các văn bản khác, nguyên đơn là chị Phạm Thị Hoài A trình bày: Anh D và chị A kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Cộng hòa Hàn Quốc theo Giấy chứng nhận quan hệ hôn nhân số: 2015-26788 cấp ngày 15/12/2015 và được Ủy ban nhân dân quận C, thành phố Hải Phòng ghi chú kết hôn ngày 26/01/2016. Sau khi kết hôn chị A chung sống cùng anh D tại Hàn Quốc nhưng chỉ được 20 ngày thì quan hệ vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do bất đồng ngôn ngữ, phong tục tập quán, quan điểm, lối sống. Đến tháng 4 năm 2016, chị A về Việt Nam và không có ý định quay trở lại Hàn Quốc. Chị A cũng đã liên lạc với anh D thể hiện ý chí là muốn ly hôn, anh D cũng đồng ý nhưng không gửi giấy tờ về. Nay nhận thấy cuộc hôn nhân với anh D không có hạnh phúc và không thể tiếp tục chung sống nên chị A đề nghị được ly hôn với anh D.

Về quan hệ nuôi con chung và quan hệ tài sản chung: Chị A trình bày quá trình chung sống không có con chung và tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Chị A giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn; giữ nguyên lời trình bày tại bản tự khai đề nghị Tòa án giải quyết cho chị A được ly hôn với anh anh D.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử: Về quan hệ hôn nhân: Mâu thuẫn giữa chị A và anh D đã sâu sắc, không còn khả năng khắc phục nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A; về quan hệ nuôi con chung và quan hệ tài sản chung: Chị A không yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Quan hệ tranh chấp của vụ án về việc ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37 và điểm b khoản 1 Điều 39, Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Anh D vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án thông báo việc Tòa án đang giải quyết việc xin ly hôn giữa chị A và anh D và đề nghị anh D cho biết quan điểm của anh đối với yêu cầu xin ly hôn của chị A. Ngày 01/9/2017, Tòa án nhận được văn bản trả lời số 789/CH-BTP ngày 26/7/2017 của Bộ Tư pháp về việc đã chuyển hồ sơ ủy thác tư pháp của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng cho Tòa án nhân dân tối cao của Hàn Quốc để thực hiện việc ủy thác và gửi lại kết quả cho Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, cho đến thời điểm mở phiên tòa lần thứ nhất ngày 22/01/2018, Tòa án vẫn chưa nhận được kết quả ủy thác. Ngay sau khi hoãn phiên tòa, ngày 22/01/2018, Tòa án đã có văn bản đề nghị Bộ Tư pháp thông báo về việc thực hiện tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước ngoài; đã thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao ngày 05/02/2018. Cho đến nay đã hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày có văn bản gửi Bộ Tư pháp nhưng Tòa án vẫn không nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền về kết quả thực hiện việc tống đạt cho đương sự ở nước ngoài. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt anh D theo quy định tại điểm c khoản 5 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về yêu cầu của đương sự:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh D và chị Phạm Thị Hoài A kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Cộng hòa Hàn Quốc theo Giấy chứng nhận quan hệ hôn nhân số: 2015-26788 cấp ngày 15/12/2015 và được Ủy ban nhân dân quận C, thành phố Hải Phòng ghi chú kết hôn ngày 26/01/2016. Ngay từ khi chung sống, anh D và chị Phạm Thị Hoài A đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do các bên chưa tìm hiểu kỹ đã kết hôn nên khi về chung sống đã có nhiều bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quán, quan điểm, lối sống nên chưa được một tháng chị A đã về Việt Nam. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của chị A phù hợp với tình trạng thực tế mối quan hệ giữa hai bên, phù hợp với tình trạng thực tế gia đình và phù hợp với quy định tại Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận.

[4] Về quan hệ nuôi con chung và quan hệ tài sản chung: Chị A trình bày quá trình chung sống không có con chung và tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí sơ thẩm:

[5] Chị A phải chịu án phí ly hôn và chi phí tố tụng sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị Hoài A được ly hôn với anh D.

2. Về quan hệ nuôi con chung và quan hệ tài sản chung: Chị Phạm Thị Hoài A trình bày quá trình chung sống không có con chung và tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về án phí sơ thẩm: Chị Phạm Thị Hoài A phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đông theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 3640 ngày 20/4/2017 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị Phạm Thị Hoài A phải chịu tiền chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài được khấu trừ vào số tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài là 200.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 3804 ngày 10/5/2017 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị Phạm Thị Hoài A đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm và chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, chị Phạm Thị Hoài A có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao.

Trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày tuyên án, anh D có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
  • Tên bản án:
    Bản án 52/2018/HNGĐ-ST ngày 25/05/2018 về ly hôn
  • Số hiệu:
    52/2018/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    25/05/2018
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2018/HNGĐ-ST ngày 25/05/2018 về ly hôn

Số hiệu:52/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về