Bản án 52/2018/HS-ST ngày 27/06/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 52/2018/HS-ST NGÀY 27/06/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 6 năm 2018, tại Trụ sở TAND huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 53/2018/TLST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Anh K (Ô), sinh năm 1983, tại huyện G, tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký NKTT và nơi cư trú hiện nay: ấp L, xã C, huyện G, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Cao Đài; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn H (chết) và Nguyễn Thị T; Vợ Trương Thị Kim H; Có 02 con lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2007; Tiền sự: Ngày 12-02-2015 bị công an xã C, huyện G xử phạt 750.000 đồng; Ngày 23-3-2015 bị công an xã C, huyện G xử phạt 750.000 đồng; Ngày 26-10-2016 bịcông an xã C xử phạt 1.000.000 đồng; Ngày 9-4-2018 bị Công an huyện G xử phạt 750.000 đồng. Cả 04 lần bị xử phạt đều là hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, tiền án: Không . Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 09-4-2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt.

Bị hại:

1.  Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1989.

Địa chỉ: Ấp B, xã C, huyện G, tỉnh Tây Ninh. (vắng mặt).

2.  Anh Trần Văn P, sinh năm: 1991.

Địa chỉ: ấp A, xã C, huyện G, tỉnh Tây Ninh. (vắng mặt).

3.  Ông Lê Văn V, sinh năm: 1969.

Địa chỉ: ấp L, xã C, huyện G, tỉnh Tây Ninh. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Anh K là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có tài sản, muốn có tiền đánh bạc đã dùng thủ đoạn gian dối thực hiện 03 vụ chiếm đoạt tài sản như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng tháng 6 năm 2017, K nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của anh Nguyễn Văn T nên đến nhà anh T mượn xe mô tô để đến Thánh thất L, thì anh T đồng ý cho mượn xe mô tô biển số: 70F1-178.90. Nhưng K không đến Thánh thất L mà đem xe sang Campuchia cầm cố với số tiền 6.000.000 đồng lấy tiền đánh bạc thua hết.

Vụ thứ hai: Khoảng 18 giờ ngày 08-9-2017, K đi bộ đến khu vực trường trung học cơ sở Lê Lợi thuộc ấp A, xã C, huyện G, tỉnh Tây Ninh gặp anh Trần Văn P đang điều khiển xe mô tô biển số: 70F1-234.51 nên nảy sinh ý chiếm đoạt xe mô tô của anh P. K nói dối mượn xe để đi đón bạn thì anh P đồng ý. Sau đó, K đem xe sang Campuchia cầm cố với số tiền 3.500.000 đồng lấy tiền đánh bạc thua hết.

Vụ thứ ba: Khoảng tháng 9 năm 2017, K đến nhà anh Lê Văn V nói mượn xe mô tô của anh V để đi lấy tiền thì anh V đồng ý cho mượn xe mô tô biển số: 70F1-304.78. Nhưng K không đi lấy tiền mà đem xe sang Campuchia cầm cố với số tiền2.500.000 đồng lấy tiền đánh bạc thua hết.

Ngày 18/12/2017, Anh Nguyễn Văn T, Trần Văn P, Lê Văn V đến Công an trình báo và yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.

Kết luận định giá tài sản số: 25/KL-HĐ ngày 29/3/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện G, tỉnh Tây Ninh xác định xe mô tô Waytec biển số: 70F1-304.78 có giá trị 3.000.000 đồng.

Kết luận định giá tài sản số: 17/KL-HĐ ngày 12/3/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện G, tỉnh Tây Ninh xác định 01 xe mô tô Sirius biển số: 70F1-178.90 và 01 xe mô tô Wave biển số: 70F1-234.51 có tổng giá trị tài sản là 13.500.000 đồng.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Không có.

Về trách nhiệm dân sự: Phạm Anh K đã tác động gia đình bồi thường cho các bị hại là anh Nguyễn Văn T, Trần Văn P, Lê Văn V với tổng số tiền 13.300.000 đồng. Đồng thời, các bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với K.

Tại bản Cáo trạng số: 54/QĐ-KSĐT ngày 22 tháng 5 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh đã truy tố Phạm Anh K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Anh K đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng cũng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 139; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm b, p khoản 1,khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử  phạt bị cáo Phạm Anh K mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận gia đình bị cáo đã bồi thường cho các bị hại là anh Nguyễn Văn T, Trần Văn P, ông Lê Văn V với tổng số tiền 13.300.000 đồng. Các bị hại không yêu cầu bồi thường thêm.

Tại phiên tòa các bị hại Nguyễn Văn T, Trần Văn P, Lê Văn V vắng mặt nhưng qua làm việc tại cơ quan điều tra các bị hại trình bày: Đã nhận tiền bồi thường từ gia đình của bị cáo xong và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Từ tháng 5 năm 2017 đến tháng 9 năm 2017, bị cáo dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt xe mô tô biển số: 70F1-178.90 của anh Nguyễn Văn T có giá trị 10.700.000 đồng, xe mô tô biển số: 70F1-234.51 của anh Trần Văn P có giá trị 2.800.000 đồng, xe mô tô biển số: 70F1-304.78 của anh Lê Văn V có giá trị 3.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt 16.500.000đồng. Do đó hành vi của bị cáo Phạm Anh K đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[3] Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng. Bị cáo biết rõ việc thực hiện hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì mục đích có tiền để đánh bạc không phải lao động chân chính, mà bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an ở địa phương nên cần phải xử lý mới có tác dụng răn đe bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có vận động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại; Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung, theo qui định tại khoản 5 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì bị cáo có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận gia đình bị cáo đã bồi thường cho các bị hại xong và các bị hại không yêu cầu bồi thường thêm.

[5] Về án phí: Bị cáo Phạm Anh K phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Anh K phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 139; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009;

Xử phạt:  Bị cáo Phạm Anh K 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 9-4-2018.

2. Trách nhiệm dân sự: Ghi nhận gia đình bị cáo đã bồi thường cho các bị hại xong và các bị hại không yêu cầu bồi thường thêm.

3. Về án phí: Bị cáo Phạm Anh K phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hìnhsự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2018/HS-ST ngày 27/06/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:52/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về