Bản án 52/2019/HS-ST ngày 26/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 52/2019/HS-ST NGÀY 26/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đỗ Thị T, sinh ngày 09 tháng 10 năm 1983 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn 6, xã K, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Khắc K (đã chết) và con bà Trần Thị M, sinh năm 1961; Đã ly hôn anh Nguyễn Thành N và có 04 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/10/2018 đến ngày 17/10/2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Đỗ Khắc D, sinh ngày 12 tháng 11 năm 1989 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn 6, xã K, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Khắc K (đã chết) và con bà Trần Thị M, sinh năm 1961; Đã ly hôn chị Lương Thị Y và có 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/01/2019 đến ngày 05/01/2019 chuyển tạm giam; có mặt.

3. Hà Tuấn T3, sinh ngày 04 tháng 3 năm 1978 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn 2, xã Mỹ Đồng, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Hữu Nha sinh năm 1952 và con bà Đinh Thị Thà sinh năm 1951; Có vợ Phạm Thị Quế và có 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/10/2018 đến ngày 17/10/2018 chuyển tạm giam; có mặt.

- Bị hại: Ông Đỗ Hữu H1 sinh năm 1962 và bà Đặng Thị H2 sinh năm 1967; nơi cư trú: Thôn 6, xã K, huyện T1; Đều váng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Hà Văn V sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn Đ, xã K, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

Anh Cao Văn H10 sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn 8, xã L, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

Anh Trịnh Xuân T10 sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn 10, xã L, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

Anh Nguyễn Thanh T9 sinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn Đ, xã T5, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

Anh Đào Trọng Đ10 sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn 3, xã K, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

Anh Cao Văn H5 sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn D, xã L, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy: Đỗ Thị T và Hà Tuấn T3 sống chung như vợ chồng, Đỗ Khắc D là em trai Đỗ Thị T. Đỗ Thị T và Hà Tuấn T3 thuê 01 gian nhà dưới của Đỗ Khắc D để ở tại thôn 6, xã K, huyện T1, thành phố Hải Phòng. Cả Đỗ Thị T, Đỗ Khắc D và Hà Tuấn T3 đều nghiện ma túy. Đỗ Thị T thường đi mua ma túy của người không quen biết ở khu vực Phà Rừng về sử dụng và bán lại cho các người nghiện khác để kiếm lời. Đỗ Thị T mua ma túy về chia nhỏ, rồi bán lại cho người nghiện khác. Loại ma túy Đỗ Thị T bán là ma túy đá (Methamphetamine). Giá bán ma túy từ khoảng 150.000 đồng đến 500.000 đồng/túi tùy theo lượng ma túy giao dịch. Đỗ Thị T và các đối tượng nghiện thường giao dịch qua điện thoại, thỏa thuận số lượng, địa điểm giao nhận ma túy tại nơi ở của Đỗ Thị T. Đỗ Thị T là người trực tiếp giao dịch mua bán ma túy với các đối tượng nghiện. Những khi có việc bận, Đỗ Thị T nhờ Đỗ Khắc D và Hà Tuấn T3 bán ma túy hộ. Nguồn gốc số ma túy đá công an thu giữ là của Đỗ Thị T mua vào khoảng tháng 8/2018 của một người phụ nữ tên Hoa (không xác định căn cước, lai lịch) 2.500.000 đồng và mua của một người đàn ông không quen biết 5.000.000 đồng vào khoảng tháng 9/2018. Đỗ Thị T đã nhiều lần bán ma túy cho nhiều người nhưng không nhớ chính xác thời gian, địa điểm, đối tượng đã mua bán. Trong khoảng thời gian từ ngày 01 - 08/10/2018, Đỗ Thị T, Đỗ Khắc D và Hà Tuấn T3 đã cùng nhau mua bán ma túy, cụ thể:

- Lần thứ nhất: Khoảng trưa ngày 01/10/2018, Hà Văn V gọi điện cho Đỗ Thị T mua 400.000 đồng ma túy đá, nợ lại 20.000 đồng. Đỗ Thị T lấy 01 túi ma túy đưa cho Đỗ Khắc D để Đỗ Khắc D giao cho Hà Văn V lấy 380.000 đồng đưa lại cho Đỗ Thị T.

- Lần thứ hai: Khoảng 15 giờ ngày 04/10/2018, Cao Văn H10 gọi điện cho Đỗ Thị T mua 400.000 đồng ma túy đá. Đỗ Thị T lấy 01 túi ma túy đưa cho Đỗ Khắc D để Đỗ Khắc D giao cho Cao Văn H10 và Trịnh Xuân T10. Đỗ Khắc D nhận tiền mang về đưa cho Đỗ Thị T.

- Lần thứ ba: Khoảng 11 giờ ngày 05/10/2018, Đỗ Thị T bán cho Cao Văn H10 và Nguyễn Thanh T9 01 túi ma túy đá với giá 400.000 đồng.

- Lần thứ tư: Khoảng 11 giờ ngày 08/10/2018, Đỗ Thị T bán cho Cao Văn H10 và Đào Trọng Đ10 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng.

- Lần thứ năm: Khoảng hơn 11 giờ ngày 08/10/2018 Đỗ Thị T bán cho Hà Văn V 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng.

- Lần thứ sáu: Khoảng 14 giờ ngày 08/10/2018, Đỗ Thị T đang ở nhà cùng với Hà Tuấn T3 thì có Đào Trọng Đ10 gọi điện cho Đỗ Thị T hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá. Đỗ Thị T lấy 01 túi ma túy đưa cho Hà Tuấn T3 để Hà Tuấn T3 giao ma túy cho Đào Trọng Đ10 và Cao Văn H5 rồi nhận tiền đưa lại cho Đỗ Thị T. Các bên vừa giao dịch xong thì bị lực lượng công an bắt quả tang cùng vật chứng. Quá trình bắt giữ, Hà Tuấn T3 bỏ chạy.

Thu giữ của Đào Trọng Đ10 01 túi nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có số sim 0927.430.776; thu của Đỗ Thị T 300.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J8 có số sim 0335.533.986. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đỗ Thị T thu giữ tại khu vực cửa thoát hiểm phía sau nhà Đỗ Thị T 1,5 m có 01 túi giả da nữ màu đen kích thước 10cm x 15cm, bên trong có 02 túi nylon chứa tinh thể màu trắng (ở mép hố ga), 01 ống túi nhựa màu đỏ trắng dài 10cm, số tiền 650.000 đồng; 01 túi nylon chứa tinh thể màu trắng (ở mép cửa thoát hiểm); trên nền nhà có 01 số mảnh tinh thể màu trắng, 01 vỏ túi nylon; tại tầng 02 kệ kính gắn trên tường có 01 túi nylon chứa tinh thể màu trắng và số tiền 1.160.000 đồng; tại túi áo (kiểu áo bằng vải bò nữ) treo trong tủ quần áo nhà Đỗ Thị T có 01 túi nylon chứa tinh thể màu trắng; trên giường có 01 áo thun cổ tròn ngắn tay màu xanh dương, một mũ lưỡi trai và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu vàng.

Theo bản Kết luận giám định số 550 ngày 09/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng Công an thu giữ của Đào Trọng Đ10 là ma túy, khối lượng 0,0464 gam, là loại Methamphetamine; Đối với các lượng tinh thể Công an thu giữ tại nơi ở của Đỗ Thị T gồm tinh thể màu trắng trong 02 túi nylon thu tại mép hố ga có khối lượng 0,2948 gam, trong 01 túi nylon thu tại mép cửa thoát hiểm có khối lượng 0,2378 gam, 01 số mảnh tinh thể màu trắng trên nền nhà có khối lượng 0,968 gam, trong 01 túi nylon thu tại kệ kính gắn trên tường có khối lượng 0,4479 gam, trong 01 túi nylon thu tại túi áo có khối lượng 9,7416 gam, tất cả đều là ma túy, là loại Methamphetamine.

Ngày 02/01/2019, Đỗ Khắc D bị bắt theo lệnh truy nã của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên.

Về hành vi Cướp tài sản: Ngay sau khi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy trên, Hà Tuấn T3 đã bỏ chạy và bị lực lượng công an truy đuổi. Hà Tuấn T3 đã chạy vào nhà bà Đặng Thị H2 ở thôn 6, xã K, huyện T1, thành phố Hải Phòng, thấy trong sân nhà bà Đặng Thị H2 có dựng 01 chiếc xe mô tô biển số 15G1-278.73 và 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Nijia (cả hai xe đều có chìa khóa cắm trên ổ khóa điện). Hà Tuấn T3 đã nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô làm phương tiện bỏ chạy, ngồi lên xe mô tô biển số 15G1-278.73 mở khóa điện nổ máy để bỏ chạy thì ngay lúc đó bị đồng chí Nguyễn Văn T6 - Phó trưởng Công an xã Kênh Giang đuổi kịp. Hà Tuấn T3 vứt xe mô tô lại, chạy vào trong bếp nhà bà Đặng Thị H2 lấy 02 con dao (01 con dao cán bằng kim loại màu đen, đầu bằng, dài 35cm, bản rộng 09cm và 01 con dao cán bằng gỗ, đầu bằng dài 35cm, bản rộng 5.5cm) để tấn công, chống lại đồng chí Nguyễn Văn T6. Thấy vậy, bà Đặng Thị H2 và chồng là ông Đỗ Hữu H1 rút chìa khóa xe mô tô ra. Hà Tuấn T3 hai tay cầm hai con dao chạy đến chỗ vợ chồng bà Đặng Thị H2, giơ dao đe dọa và quát “đưa chìa khóa đây”, vợ chồng bà Đặng Thị H2 sợ hãi đứng yên không đưa. Hà Tuấn T3 tiếp tục giơ dao về phía vợ chồng bà Đặng Thị H2 đe dọa để lấy chìa khóa xe mô tô nhưng không lấy được nên đã lấy xe đạp điện. Hà Tuấn T3 ngồi lên chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Nijia, mở khóa điều khiển xe đạp điện bỏ chạy. Hà Tuấn T3 vừa điều khiển xe, tay trái vẫn cầm hai con dao đi được khoảng 60m thì bị lực lượng công an bắt giữ cùng vật chứng.

Tại bản Kết luận định giá tài sản ngày 11/4/2019 và 25/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thủy Nguyên kết luận: 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Nijia màu đen, trắng trị giá 1.500.000 đồng, 02 con dao trị giá 50.000 đồng, 01 chiếc xe mô tô biển số 15G1-273.73 trị giá 1.800.000 đồng.

Bà Đặng Thị H2 và ông Đỗ Hữu H1 đã nhận lại xe mô tô, xe đạp điện và không yêu cầu bồi thường. Quá trình đuổi bắt Hà Tuấn T3, anh Nguyễn Văn T6 không bị thương tích.

- Vật chứng của vụ án: Chất ma túy còn lại sau giám định; 03 chiếc điện thoại di động (01 chiếc nhãn hiệu Nokia có số sim 0927.430.776; 01 chiếc nhãn hiệu Sam sung J8 có số sim 0335.533.986; 01 chiếc điện thoại Sam sung màu vàng); 01 túi giả da màu đen (kích thước 10cm x 15cm); 01 vỏ túi nylon; 01 áo thun ngắn tay cổ tròn, màu xanh; 01 mũ lưỡi trai; 01 ống hút nhựa màu đỏ trắng; 01 con dao kim loại màu đen, đầu bằng, dài 35 cm cả cán, bản rộng 09cm; 01 con dao cán bàng gỗ, đầu bằng dài 35cm cả cán, bản rộng 5.5cm; số tiền 2.110.000 đồng.

Cáo trạng số 52/CT-VKSTN ngày 22 tháng 5 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Hà Tuấn T3 về các tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự và Cướp tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự, bị cáo Đỗ Thị T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, bị cáo Đỗ Khắc D về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Các bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi như nội dung nêu trên và đồng ý với tội danh mà Kiểm sát viên luận tội đối với các bị cáo nhưng đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai trong hồ sơ vụ án đã trình bày đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt ở trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b, c, i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 17, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Thị T với mức án từ 09 năm tù đến 10 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 17, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Khắc D với mức án từ 08 năm tù đến 09 chín năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 55, Điều 17, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hà Tuấn T3 với mức án từ 07 năm tù đến 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 55, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hà Tuấn T3 với mức án từ 07 năm tù đến 08 năm tù về tội Cướp tài sản, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Hà Tuấn T3 phải chấp hành hình phạt chung. Không áp dụng phạt bổ sung đối với các bị cáo. Xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1]. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.

- Về tội phạm mà Viện kiểm sát truy tố đối với các bị cáo:

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận như sau:

Các bị cáo Đỗ Thị T, Đỗ Khắc D và Hà Tuấn T3 cùng nhau thực hiện việc bán trái phép chất ma túy nhiều lần cho nhiều người (Đào Trọng Đ10, Cao Văn H5, Cao Văn H10, Hà Văn V, Trịnh Xuân T10, Nguyễn Thanh T9) vào các ngày 01, 04, 05, 08/10/2018. Trong đó, Đỗ Thị T là người mua ma túy, chia nhỏ, trực tiếp giao dịch, bán ma túy. Đỗ Khắc D đã cùng Đỗ Thị T bán cho Hà Văn V, Cao Văn H10, Trịnh Xuân T10 vào các ngày 01/10/2018 và 04/10/2018. Hà Tuấn T3 biết Đỗ Thị T bán ma túy nhiều lần cho người khác và trực tiếp cùng Đỗ Thị T bán ma túy cho Đào Trọng Đ10, Cao Văn H5 vào ngày 08/10/2018. Lượng ma túy thu giữ của Đỗ Thị T là 11.6901 gam Methamphetamine (= 0,2948gam + 0,2378gam + 0,968gam + 0,4479gam + 9,7416gam). Nên hành vi của bị cáo Đỗ Thị T đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo Đỗ Khắc D đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo Hà Tuấn T3 đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự

Ngày 08/10/2018 bị cáo Hà Tuấn T3 có hành vi sử dụng vũ lực bằng cách cầm hai con dao đe dọa, uy hiếp vợ chồng bà Đặng Thị H2 và ông Đỗ Hữu H1 để chiếm đoạt các tài sản gồm 01 xe đạp điện nhãn hiệu NIJIA màu đen, trắng trị giá 1.500.000 đồng, 02 con dao trị giá 50.000 đồng, 01 xe mô tô biển số 15G1-273.73 trị giá 1.800.000 đồng của vợ chồng bà Đặng Thị H2 và ông Đỗ Hữu H1. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 3.350.000 đồng. Nên hành vi của bị cáo Hà Tuấn T3 đủ yếu tố cấu thành tội Cuớp tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng số 52/CT-VKSTN ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố các bị cáo như đã nêu trên và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng pháp luật.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

[3]. Đây là vụ án đồng phạm về tội Mua bán trái phép chất ma túy, phân hóa vai trò những người đồng phạm xét thấy bị cáo Đỗ Thị T là người đề xuất và thực hành tích cực nên vị trí, vai trò cao nhất và hơn các bị cáo khác, các bị cáo còn lại đều là những người thực hành.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Bị cáo Hà Tuấn T3 có cha mẹ được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến. Do đó các bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và bị cáo Hà Tuấn T3 có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân của các bị cáo: Các bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự thể hiện là có nhân thân bình thường.

Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm đã xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước về chất ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo Hà Tuấn T3 còn xâm phạm quyền sở hữu tài sản, sức khỏe người khác gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân của từng bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng cần thiết phải áp dụng hình phạt tù trên mức khởi điểm của khung hình phạt, buộc các bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo riêng cho từng bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Hà Tuấn T3 phải chấp hành hình phạt chung. Như vậy mức hình phạt chính mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với từng bị cáo là phù hợp.

Đối với hình phạt bổ sung, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Về những vấn đề khác:

[4] Về dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu đầy đủ, bị hại không có yêu cầu bồi thường và trả lại 02 con dao nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định; 01 túi giả da màu đen; 01 vỏ túi nylon; 01 mũ lưỡi trai; 01 áo thun ngắn tay cổ tròn, màu xanh; 01 ống hút nhựa màu đỏ trắng; 01 con dao kim loại màu đen, đầu bằng, dài 35cm cả cán, bản rộng 09cm; 01 con dao cán bằng gỗ, đầu bằng dài 35cm cả cán, bản rộng 5.5cm là vật nhà nước cấm lưu hành, liên quan đến tội phạm và không còn giá trị sử dụng. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 02 chiếc điện thoại di động (01 chiếc nhãn hiệu Nokia màu đen có số sim 0927.430.776; 01 chiếc nhãn hiệu Sam sung J8 có số sim 0335.533.986). Tịch thu vào ngân sách nhà nước số tiền 2.080.000 đồng do Đỗ Thị T bán ma túy mà có. Đối với số tiền 2.110.000 đồng đã thu giữ của bị cáo Đỗ Thị T, cần tạm giữ để thực hiện nghĩa vụ của bị cáo. Trả lại cho bị cáo Hà Tuấn T3 01 chiếc điện thoại Sam sung màu vàng do không liên quan đến việc phạm tội.

[6] Trong vụ án này: Các đối tượng Đào Trọng Đ10, Cao Văn H5, Cao Văn H10, Hà Văn V, Trịnh Xuân T10, Nguyễn Thanh T9 là những người mua ma túy của các bị cáo để sử dụng cho bản thân. Quá trình điều tra xác định, lượng ma túy (Methamphetamine) công an thu giữ của Đào Trọng Đ10, Cao Văn H5 không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự và không thu giữ được ma túy của Cao Văn H10, Hà Văn V, Trịnh Xuân T10, Nguyễn Thanh T9 nên Công an huyện Thủy Nguyên đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đào Trọng Đ10, Cao Văn H5, Cao Văn H10, Hà Văn V, Trịnh Xuân T10, Nguyễn Thanh T9. Các đối tượng bán ma túy cho Đỗ Thị T nhưng quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch nên không có cơ sở điều tra.

[7] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c, i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Đỗ Thị T 11 (mười một) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án được trừ 09 (chín) ngày bị tạm giữ từ ngày 09/10/2018 đến ngày 17/10/2018.

Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Đỗ Khắc D 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ ngày 02/01/2019.

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Hà Tuấn T3 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự, xử phạt: Hà Tuấn T3 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Cướp tài sản. Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Hà Tuấn T3 phải chấp hành hình phạt chung là 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ ngày 09/10/2018.

Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định; 01 túi giả da màu đen; 01 vỏ túi nylon; 01 mũ lưỡi trai; 01 áo thun ngắn tay cổ tròn, màu xanh; 01 ống hút nhựa màu đỏ trắng; 01 con dao kim loại màu đen, đầu bằng, dài 35cm cả cán, bản rộng 09cm; 01 con dao cán bằng gỗ, đầu bằng dài 35cm cả cán, bản rộng 5.5cm. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 02 chiếc điện thoại di động (01 chiếc nhãn hiệu Nokia màu đen có số sim 0927.430.776; 01 chiếc nhãn hiệu Sam sung J8 có số sim 0335.533.986). Trả lại cho bị cáo Hà Tuấn T3 01 chiếc điện thoại Sam sung màu vàng (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng). Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 2.080.000 đồng do Đỗ Thị T bán ma túy mà có. Đối với số tiền 2.110.000 đồng đã thu giữ của bị cáo Đỗ Thị T, tiếp tục tạm giữ để thực hiện nghĩa vụ của bị cáo. (Theo Biên lai thu tiền số 0000170 ngày 15/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng).

Về án phí áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc các bị cáo Đỗ Thị T, Đỗ Khắc D, Hà Tuấn T3 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HS-ST ngày 26/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về