Bản án 52/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM   

BẢN ÁN 52/2019/HS-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 50/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Bùi Văn Đ, sinh năm 2000 tại xã A, huyện L, tỉnh Hòa Bình; nơi đăng ký HKTT: Thôn M, xã A, huyện L, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi V và bà Bùi T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 04-8-2019 và bị tạm giam từ ngày 10-8-2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Đinh Xuân Q, sinh năm 1988; nghề nghiệp: Lao động tự do; nơi cư trú: Thôn T, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1994; nghề nghiệp: Lao động tự do; nơi cư trú: Thôn S, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ ngày 04-8-2019, Đinh Xuân Q trú tại thôn T, xã N, huyện K gặp Nguyễn Xuân T trú tại thôn S, xã T, huyện K tại tổ N, thị trấn Q, huyện K, tỉnh Hà Nam. Q nói với T “Đi làm tí đá nhỉ”, T đồng ý nói “Em có năm trăm, anh biết chỗ lấy không”, Q nói “Có thằng Đ ở Phủ Lý, để tao gọi”. Sau đó Q mượn điện thoại của người qua đường gọi cho Bùi Văn Đ nói “Để cho anh hai túi năm”. Hiểu ý Q hỏi mua ma túy, Đ đồng ý nói “Anh đang ở đâu”, Q nói “Anh đang ở cổng Bệnh viện Kim Bảng”, Đ nói “Đợi tí em đi xe lên”. Khoảng 19 giờ cùng ngày, Bùi Văn Đ bắt xe taxi từ thôn D, xã C, thành phố P mang theo 01 túi nilon màu trắng bên trong có 03 túi nilon màu trắng đều chứa ma túy đến cổng Bệnh viện huyện Kim Bảng gặp Đinh Xuân Q và Nguyễn Xuân T. Đến nơi Q xuống xe đưa cho Đ 1.000.000 đồng, Đ cầm tiền lấy 01 túi nilon màu trắng bên trong có 03 túi ma túy đang định đưa cho Q 02 túi ma túy thì bị Công an huyện Kim Bảng phối hợp cùng Công an thị trấn Q bắt quả tang, chiếc xe taxi bỏ chạy thoát.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu trong lòng bàn tay trái của Bùi Văn Đ 01 túi nilon màu trắng bên trong có 03 túi nilon màu trắng nhỏ, bên trong mỗi túi đều chứa các hạt tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT01; thu trong túi quần bên trái phía trước của Bùi Văn Đ đang mặc số tiền 1.000.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen được niêm phong trong các phong bì kí hiệu lần lượt QT02, QT03. Thu tại túi quần bên phải phía trước của Nguyễn Xuân T 01 tờ xổ số lô tô Hà Nam có ghi số 4831 mở thưởng ngày 04-8-2019 được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT04. Thu tại túi quần bên phải phía trước của Đinh Xuân Q 01 tờ xổ số lô tô Hà Nam có ghi số 9592 mở thưởng ngày 04-8-2019 được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT05.

Tại bản kết luận giám định số 149/PC09-MT ngày 07-8-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì kí hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,703g (không phảy bảy trăm linh ba gam) loại: Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 53/CT-VKSKB ngày 04-9-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo Bùi Văn Đ về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đ từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số Methamphetamine đã thu giữ của bị cáo được hoàn trả lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói mẫu vật; đề nghị tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 1.000.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động Itel màu đen đã thu giữ của bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố và nhất trí với lời luận tội của Kiểm sát viên; bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, bản kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập.

[3] Hội đồng xét xử thấy đã có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 04-8-2019, tại tổ N, thị trấn Q, huyện K, tỉnh Hà Nam, bị cáo Bùi Văn Đ đã nhận của anh Đinh Xuân Q 1.000.000 đồng để bán cho Q 02 túi ma túy loại Methamphetamine trong số 03 túi đã thu giữ của Đ có tổng khối lượng 0,703gam nhưng chưa kịp đưa ma túy cho Q thì bị lực lượng Công an huyện Kim Bảng phối hợp với Công an thị trấn Q bắt quả tang, 01 túi còn lại Đ khai là để bán kiếm lời. Như vậy, hành vi của Bùi Văn Đ đã phạm vào tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi mua bán trái phép ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nó góp phần làm gia tăng tội phạm về ma túy tại khu vực thị trấn Q và các vùng lân cận; trong lúc Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đang ra sức đấu tranh, đẩy lùi tệ nạn ma tuý nhằm xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, song bị cáo đã không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, đã bán trái phép ma túy cho người khác nhằm mục đích kiếm lời, vì vậy cần phải xử lí nghiêm khắc, cách li bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Khi quyết định hình phạt, xét bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đều khai báo thành khẩn, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo chưa có gia đình riêng, không có nghề nghiệp và thu nhập, không có tài sản riêng, do đó miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số Methamphetamine: Tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa không đủ căn cứ để xác định được nguồn gốc số Methamphetamine đã thu giữ và đối tượng có liên quan để xử lí.

[8] Đối với Đinh Xuân Q và Nguyễn Xuân T có hành vi góp tiền mua ma túy để sử dụng, tuy nhiên do Bùi Văn Đ đã nhận tiền nhưng chưa giao ma túy cho Q và T nên không có căn cứ để xử lí Q và T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

[9] Về vật chứng của vụ án: Đối với số Methamphetamine đã thu giữ của bị cáo gửi đi giám định được hoàn trả lại là vật cấm tàng trữ, do vậy cần tịch thu, tiêu huỷ. Đối với số tiền 1.000.000 đồng đã thu giữ là tiền bị cáo thu lời bất chính do bán trái phép ma túy mà có và 01 chiếc điện thoại di động Itel màu đen đã thu giữ là phương tiện bị cáo dùng để liên lạc bán ma túy, do vậy cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; các điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Căn cứ các điểm a, b khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án và Danh mục án phí, lệ phí Toà án:

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn Đ phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý". Xử phạt bị cáo Bùi Văn Đ 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 04-8-2019.

2. Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu, tiêu huỷ số Methamphetamine được niêm phong trong phong bì có số 149/PC09-MT ghi “Mẫu vật hoàn trả QT01”, có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 1.000.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen được gắn 01 thẻ sim Viettel.

(Các vật chứng trên đều được xác định tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05-9-2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam với Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam).

3. Về án phí: Buc bị cáo Bùi Văn Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về