Bản án 52/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 52/2019/HS-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Hữu T, sinh năm 1991 tại Quảng Ngãi; nơi cư trú tổ 13, ấp B, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đặng Hữu T, sinh năm 1968 và bà Đoàn Thị L, sinh năm 1969; bị cáo có vợ là chị Hoàng Thị N B sinh năm 1994 và 01 người con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không;

Về nhân thân: Ngày 16/9/2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 05 (năm) năm tù về tội “Cướp tài sản” và 03 (ba) năm tù về tội “Hiếp dâm”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội danh buộc bị cáo phải chấp hành là 08 (tám) năm tù (Tại bản án số 37/2010/HSST ngày 16/9/2010). Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/01/2019 cho đến nay, “bị cáo có mặt”.

Người bị hại:

Anh Nguyễn Tuấn D, sinh năm 1998; nơi cư trú khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”.

Người làm chứng:

Anh Lý Duy K, sinh năm 1985; nơi cư trú khu phố 04, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”;

Anh Trần Đăng K, sinh năm 1977; nơi cư trú khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 21/01/2019, Đặng Hữu T điều khiển xe mô tô biển số 54P2-5454 chở N (không rõ nhân thân, lai lịch) đi ngang qua trụ sở Cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Đ, thuộc khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước, thấy phía trước sân có nhiều xe mô tô nên T nảy sinh ý định lấy trộm xe đem bán lấy tiền tiêu xài. T nói với N vào Bảo hiểm xã hội thành phố Đ làm bảo hiểm. Sau đó, T điều khiển xe đi vào khu vực để xe của khách thì dừng lại và giao lại xe trên cho N, đồng thời nói với N là đi kiếm gì uống đi xong việc T sẽ gọi điện thoại. Sau khi N điều khiển xe đi, T quan sát khoảng 10 phút thấy khu vực để xe vắng người và không có ai trông coi nên đi bộ lại tiếp cận xe mô tô biển số 93P1-972.21 của anh Nguyễn Tuấn D rồi lấy đoản tự chế hình chữ T (T chuẩn bị từ trước) bẻ ổ khóa điện, đẩy lùi xe khoảng 2m để quay đầu xe thì bị anh D phát hiện truy hô rồi cùng anh Lê Duy K và một số người dân khống chế bắt giữ giao cho Công an phường T, thành phố Đ lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Ngày 25/01/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 93P1-972.21 màu trắng-bạc, số khung: 1259FY342016, số máy: HC12E7342079, đã qua sử dụng, còn hoạt động bình thường trị giá 10.000.000 đồng.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 93P1-972.21; 01 điện thoại di động hiệu Sam sung và 01 đoạn kim loại hình chữ T, dài 12cm, ngang 08cm, một đầu dẹp nhọn.

Ngày 15/02/2019, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Đ ra quyết định xử lý vật chứng số 28, trả 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 93P1-972.21 màu trắng - bạc, số khung: 1259FY342016, số máy: HC12E7342079 cho anh Nguyễn Tuấn D.

Tại Bản cáo trạng số 49/CT-VKS-ĐX ngày 08/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ đã truy tố bị cáo Đặng Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Hữu T mức án từ 12 đến 15 tháng.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 đoạn kim loại hình chữ T, dài 12cm, ngang 8cm, một đầu dep nhọn. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung.

Bị cáo T tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 49/CT-VKS-ĐX ngày 08/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, với kết luận điều tra, vật chứng vụ án cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương T thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Lợi dụng việc anh Nguyễn Tuấn D sơ hở trong việc quản lý tài sản nên khoảng 15 giờ 30 phút ngày 21/01/2019 Đặng Hữu T đã lén lút vào trụ sở của Cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Đ dùng đoản sắt tự chế hình chữ T để mở khóa xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 93P1-972.21 của anh D nhằm chiếm đoạt, khi đang thực hiện việc đẩy xe ra thì bị anh D và một số người dân truy hô bắt giữ.

Căn cứ vào hành vi bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do tài sản bị cáo chiếm đoạt có trị giá 10.000.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Bị cáo là người đã thành niên, hoàn toàn nhận T được việc lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để lén lút chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội nhưng vì mục đích vụ lợi cá nhân mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của những người bị hại, là khách thể được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 16/9/2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 05 (năm) năm tù về tội “Cướp tài sản” và 03 (ba) năm tù về tội “Hiếp dâm”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội danh là 08 (tám) năm tù nhưng bị cáo không biết lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân lại tiếp tục phạm tội. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại lại cho người bị hại nên chưa gây thiệt hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự được Hội đồng xét xử xem xét trong việc lượng hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

Đối với người phụ nữ tên N là người cùng bị cáo T tới trụ sở Bảo hiểm xã hội để bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đang tiếp tục xác minh nhân thân lai lịch, để có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại anh Nguyễn Tuấn D đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 đoạn kim loại hình chữ T, dài 12cm, ngang 8cm, một đầu dep nhọn.

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, tại phiên tòa bị cáo T không có yêu cầu nhận lại, xét thấy chiếc điện thoại trên đã cũ, không lên nguồn, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Đặng Hữu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đặng Hữu T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 22/01/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Do các bên không ai có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn kim loại hình chữ T, dài 12cm, ngang dài 8cm, một đầu dep nhọn và 01 điện thoại di động hiệu Samsung đã cũ, không lên nguồn, không kiểm tra được tình trạng máy móc bên trong.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0001674, quyển số 34, ký hiệu D47/2017 ngày 05/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Đ).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

6. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo; người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:52/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về