Bản án 53/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 53/2017/HSST NGÀY 27/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2017, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá. Tòa án nhân dân huyện Hà Trung xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2017/HSST, ngày 09 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Trần Văn T, sinh năm 1973; Tại: ĐL, HL, Thanh Hóa; Nơi ĐKHK thường trú và chỗ ở: Thôn PL, xã ĐL, huyện HL, tỉnh Thanh Hóa; Con ông Trần Văn K(Đã chết) và bà Mai Thị T; Vợ: Lê Thị D; Con: 03 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2015; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Năm 1995 bị Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Năm 2004 bị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị tạm giữ từ ngày 10/3/2017 đến ngày 14/3/2017 chuyển tạm giam cho đến nay.

Có mặt tại phiên tòa.

-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Thị D, sinh năm 1978. Trú tại: Thôn Phú Lý, xã Đại Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 10/3/2017, Trần Văn T đi xe máy mang biển kiểm soát 77Y1-5235 đi từ nhà ở xã Đại Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa đi theo Quốc lộ 1A ra đến thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa tìm mua hêrôin để sử dụng. Khi đi đến nhà máy thuốc lá Thanh Hóa, T rẻ phải đi vào ngã ba thôn Thượng Quý, xã Hà Phong thì gặp một người thanh niên khoảng 23 tuổi không biết tên và địa chỉ. T hỏi người đàn ông này có bán Hêrôin không  bán cho T200.000đ, người thanh niên bảo T đưa tiền, nhận tiền xong người thanh niên đưa cho T 02 gói ma túy được bọc bằng túi nilon màu xanh lá cây, bên trong là giấy trắng bên trong có ma túy. T cầm ở tay trái quay xe máy đi tìm nơi sử dụng, T đi đến khu vực vườn chuối, phía sau nhà máy thuốc lá, dừng xe chưa kịp xuống xe thì bị tổ công tác Công an huyện Hà Trung và Công an thị trấn Hà Trung đến kiểm traphát hiện thu giữ của T 02 gói ma túy T cầm ở tay trái mà T vừa mua xong. Khi bị bắt T khai đó là Hêrôin mua với giá 200.000đ. Tổ công tác kiểm tra xe máy không phát hiện và thu giữ được đồ vật gì. Tổ công tác đã đưa T và 02 gói ma túy nêu trên về Công an huyện Hà Trung lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tiến hành niêm phong tang vật.

Tại bản kết luận giám định số 767/MT-PC54 ngày 13/3/2017 của Phòng kỹthuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận chất bột màu trắng ngà dạng cục trong  02  gói nilon  thu  của  Trần  Văn  T  có  Hêrôin  với  tổng  trọng  lượng 0,398gam(Không phẩy ba chín tám gam). Tại kết luận số 1781/MT-PC54 ngày 11/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa giám định bổ sung kết luận hàm lượng Hêrôin là 62,74%, do đó trọng lượng chất Hêrôin bị cáo T tàng trữ trái phép là 0,398gam x 62,74 % = 0,249gam(Không phẩy hai bốn chín gam).

Tại bản cáo trạng số 41/CTr-VKS ngày 08/8/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá đã truy tố Trần Văn T về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo 1 điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, đại diện VKSND giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng   khoản 1, Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS năm 1999.

Khoản 3 Điều 7;  khoản 1, Điều 249 BLHS năm 2015;  Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, xử phạt Trần Văn T từ 18 đến 24 tháng tù.  Đề nghị áp dụng điều 41 BLHS, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ chất ma túy là Hêrôin là mẫu vật còn lại sau giám định.

Về chiếc xe mô tô T dùng đi mua ma túy là xe của chị Lê Thị D (Vợ T), hiệu Hon da WAVE RSX biển kiểm soát 77Y1-5235 T  dùng xe đi mua ma túy chị D không biết nên Công an huyện Hà Trung đã trả lại cho chị D.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Trần Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, lời trình bày của bị cáo phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, với vật chứng đã thu giữ được và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đượcthẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 13 giờ 20 phút ngày 10/3/2017 tại Tiểu khu 3, thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, Trần Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,249gam(Không phẩy hai bốn chín gam) Hêrôin bị bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Theo khoản 3 điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 thì những tình tiết có lợi cho người phạm tội được áp dụng trước khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 quy định “Người nào tàng trữ vậnchuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm” nhưng tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.a..., b...,c Hê rooin, coocain,... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Do khi quyết định hình phạt cần thiết phải áp dụng điểm h, khoản 2, Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc áp dụng khoản 3 Điều7 và điều khoản có lợi của BLHS năm 2015 đối với bị cáo.

Về trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo phạm vào tội nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, tội mà toàn xã hội lên án mạnh mẽ và kiên quyết đấu tranh để ngăn chặn, đẩy lùi bởi tác hại của nó đối với giống nòi, đối với trật tự an toàn xãhội, với cuộc sống bình yên của chính gia đình bị cáo. Tệ nạn ma túy làm ảnh hưởng lớn đến các chính sách phát triển kinh tế của nhà nước, việc đấu tranh với tội phạm ma túy hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước đang có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Bản thân bị cáo là đối tượngnghiện ma túy, có nhân thân xấu, đã 02 lần bị Tòa án kết án trong đó có 01 lần phải đi chấp hành hình phạt tù, đã được xóa án tích, bị cáo không lấy là bài học cho bảnthân mà vẫn tiếp tục phạm tội; do vậy cần xem xét một mức hình phạt nghiêm khắc khi quyết định hình phạt và cần cách ly bị cáo khỏi xã hội để bị cáo có thời gian rèn luyện, cải tạo thành người có ích cho xã hội, đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam được tính vào thời gian chấp hành hình phạt.

Về xử lý vật chứng: Toàn bộ chất ma túy còn lại là mẫu vật sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Về chiếc xe mô tô hiệu Hon da WAVE RSX biển kiểm soát 77Y1-5235 bị cáo dùng đi mua ma túy là xe của chị Lê Thị D (Vợ bị cáo T), T  dùng xe đi muama túy chị D không biết nên Công an huyện Hà Trung đã trả lại cho chị D là phùhợp.

Về nguồn gốc số ma túy bị cáo khai mua của người thanh niên khoảng 23 tuổi không quen biết ở ngã 3 thôn Thượng Quý xã Hà Phong, quá trình điều tra Cơ quan điều tra không xác định được danh tính, địa chỉ của người này nên không cócơ sở điều tra mở rộng vụ án.

Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng:  Khoản 1, Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS năm 1999. Khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1, Điều 249 BLHS năm 2015;  điểm h, khoản 2, Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

Xử phạt: Trần Văn T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giữ (Ngày 10/3/2017).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 41 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 76BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật còn lại sau giám định (Theo biên bản giao nhận mẫu vật sau giám định giữa Tòa án và Chi cục Thi hành án dân sự huyệnHà Trung ngày 26/9/2017) .

3. Về án phí: Căn cứ Điều 99 BLTTHS;   Điều 6, khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Trần Văn T phải chịu 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, chị Lê Thị D có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến quyền nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:53/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về