Bản án 53/2018/HS-ST ngày 09/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 53/2018/HS-ST NGÀY 09/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 8 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2018/TLST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2018/QĐXXHS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

1/. Nguyễn Quốc T. Sinh năm: 1984. Đăng ký thường trú: ấp A, xã B, huyện Cù lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: không. Con ông: Nguyễn Hữu T, (đã chết) và bà: Trần Thị L, sinh năm: 1951.Vợ: Bùi Thị Ngọc G, sinh năm: 1984. Con: có 02 người, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2013. Anh, chị em ruột: có 06 người, lớn nhất sinh năm 1974, nhỏ nhất là bị cáo. Tiền án: 02 lần: Lần thứ nhất: Vào ngày 10/11/2014, bị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm, tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù, về Tội cướp giật tài sản, chấp hành xong ngày 31/8/2015; Lần thứ hai: Vào ngày 18/01/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù, về Tội trộm cắp tài sản, đến ngày 28/02/2018 chấp hành án xong chưa được xóa án tích. Tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03 tháng 07 năm 2018 và chuyển tạm giam cho đến nay. (có mặt)

2/. Trần Phong Trân V. Tên gọi khác: Kim Trên. Sinh năm: 1990. Đăng ký thường trú: số 0, đường N, khóm M, phường I, thành phố Sóc Trăng. Dân tộc: Hoa; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: không; Con ông: Trần Kiểm H, sinh năm: 1964 và bà: Trần Thị Thu N, sinh năm: 1966. Vợ: Trần Kiều D, sinh năm: 1993. Con: có 01 người, sinh năm 2013. Anh, chị em ruột: có 03 người, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1993. Tiền án: không. Tiền sự: 01 lần: Vào ngày 28/05/2018, bị Công an xã An Viên, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng, về hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03 tháng 07 năm 2018 và chuyển tạm giam cho đến nay. (có mặt) - Người bị hại: Trương H, sinh năm 1955; Địa chỉ: Số 01, đường C, phường P, thành phố Sóc Trăng (vắng mặt);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1968; Địa chỉ: Số 02, đường G, khóm 1, phường L, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

- Người làm chứng:

1.Thạch Sa R, sinh năm 1987; Địa chỉ.......... (có mặt);

2. Huỳnh Lâm H, sinh năm 1967; .......... (vắng mặt);

3. Trương Văn T, sinh năm 1990; Địa chỉ: .......... (có mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 03/07/2018, T điều khiển xe mô tô mang biển số 83H5-1262 do anh Nguyễn Ngọc Đinh H là chủ sở hữu, đi từ nhà chị ruột của T tại xã U, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng đi đến thành phố Sóc Trăng, T điều khiển đi đến nhà số 388 đường Lý Thường Kiệt, khóm 3, phường 4, thành phố Sóc Trăng gặp V, tại đây V rủ T đi tìm tài sản của người khác để lấy trộm thì T đồng ý, lúc này V chỉ dẫn cho T điều khiển xe mô tô mang biển số 83H5-1262 đi vào đường Nguyễn Huệ theo hường từ đường Lê Duẩn đi vào trung tâm chợ Mỹ Phương, khi T và V điều khiển xe đi trên đường thì phát hiện có một ngôi nhà đang xây dựng gần nhà số 525, đường Nguyễn Huệ, phường 9, thành phố Sóc Trăng có để đồ xây dựng trong công trường nhưng không có người trông giữ, lúc này T điều khiển xe chở V chạy xung quanh công trình khoảng 04 lần quan sát không có ai, nên T và V dừng xe lại rồi cả hai cùng đi bộ vào khu đất trống cặp bên ngôi nhà đang xây dựng đi ra phía sau công trình, khi đến phía sau công trình T và V nhìn thấy có một cánh cửa được làm bằng gỗ tạm có kích thước 02 mét x 01 mét, không được làm chắc chắn, cho nên V đã dùng tay bẽ gãy hai tấm gỗ trên cánh cửa tạo thành một lỗ hổng, sau đó V đi vào bên trong công trình trước, đến lượt T đi theo sau vào bên trong công trình, sau khi vào bên trong thì T lấy trộm được 02 chân giàn giáo được làm bằng sắt có kích thước cao 1,7 mét rồi T đem ra bên ngoài, còn V lấy trộm được 02 chân giàn giáo được làm bằng sắt có kích thước cao 1,2 mét và 01 chân giàn giáo được làm bằng sắt có kích thước 1,7 mét, khi lấy được tài sản thì V lần lượt đưa từng chân giàn giáo ra bên ngoài cho T, sau khi lấy trộm được tài sản của doanh nghiệp tư nhân “Trương H” do anh Trương H là chủ sở hữu, T và V đã đem 05 chân giàn giáo ra đến nơi dựng xe mô tô, V ngồi phía sau ôm 05 chân giàn giáo cho T điều khiển xe chở đi tìm chỗ tiêu thụ, khi cả hai chở tài sản lấy trộm đi được khoảng 10 mét thì bị lực lượng Công an phường 9, thành phố Sóc Trăng phát hiện bắt quả tang cùng với vật chứng của vụ án.

Tại kết luận định giá tài sản số 90/KL.ĐGTS, ngày 05 tháng 7 năm 2018, của Hội đồng định giá tài sản thành phố Sóc Trăng, kết luận: 03 chân giàn giáo cao 1,7 mét, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 80%, có giá là 840.000 đồng; 02 chân giàn giáo cao 1,2 mét, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 80%, có giá là 240.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 1.080.000 đồng.

Tại bản Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 48/QĐ-VKS.TPST ngày 24 tháng 7 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố các bị cáo Nguyễn Quốc T và Trần Phong Trân V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại tòa, bị cáo thừa nhận quyết định truy tố đúng với hành vi bị cáo thực hiện.

Tại toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị tuyên bố các bị cáo Nguyễn Quốc T và Trần Phong Trân V phạm tội Trộm cắp tài sản”; đề nghị áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo T; áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 173; điểm h,i,s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo V; đề nghị xử phạt bị cáo T từ 09 tháng đến 12 tháng tù; xử phạt bị cáo V từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trương H đã nhận lại tài sản, nên không có yêu cầu các bị cáo bồi thường. Nên không đặt ra xem xét.

Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đối với việc vắng mặt người bị hại, người làm chứng đã có lời khai làm rõ trong hồ sơ vụ án, không trở ngại đến việc bồi thường thiệt hại, tính quyết định hình phạt. Căn cứ vào Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án quyết định xét xử vắng mặt đối với người bị hại.

[3].Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Quốc T và Trần Phong Trân V khai nhận: Vào khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 03/07/2018, T điều khiển xe mô tô đi đến thành phố Sóc Trăng gặp V, V rủ T đi lấy trộm tài sản. Các bị cáo đi ngang ngôi nhà đang xây dựng gần nhà số 525, đường Nguyễn Huệ, phường 9, thành phố Sóc Trăng có để đồ xây dựng trong công trường. Bị cáo T và V lén lút vào lấy 05 chân giàn giáo ra đến nơi dựng xe mô tô, V ngồi phía sau ôm 05 chân giàn giáo cho T điều khiển xe chở đi tìm chỗ tiêu thụ, khi cả hai chở tài sản lấy trộm đi được khoảng 10 mét thì bị lực lượng Công an phường 9, thành phố Sóc Trăng phát hiện bắt quả tang cùng với vật chứng. Qua định giá tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt: 03 chân giàn giáo cao 1,7 mét, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 80%, có giá là 840.000 đồng; 02 chân giàn giáo cao 1,2 mét, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 80%, có giá là 240.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 1.080.000 đồng.

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, các chứng cứ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định như sau: Các bị cáo thống nhất thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng không có phân công vai trò cụ thể cho từng người nên không phải là đồng phạm có tổ chức mà chỉ là đồng phạm giản đơn. Hành vi của bị cáo Nguyễn Quốc T lén lút chiếm đoạt tài sản dưới 02 triệu đồng, nhưng đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Hành vi của bị cáo Trần Phong Trần V lén lút chiếm đoạt tài sản dưới 02 triệu đồng, nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản mà còn vi phạm.

Nên Tòa án kết luận các bị cáo Nguyễn Quốc T và Trần Phong Trần V phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Như vậy, Quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố đối với hành vi của các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4]. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo; Các bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; Bị cáo V phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h,i,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[5].Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhân lại tài sản không yêu các bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6]. Xét lời đề nghị của kiểm sát viên về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ, về hình phạt cần xử phạt các bị cáo mức án khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

[7].Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Trung; điểm a Khoản 1 Điều 173; điểm h,i,s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo V;

[1].Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Quốc T và Trần Phong Trân V phạm tội Trộm cắp tài sản”;

[2]. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 7 năm 2018.

[3]. Xử phạt bị cáo Trần Phong Trân V 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 7 năm 2018.

[4].Trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5]. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc mỗi bị cáo phải nộp là 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng);

Báo cho bị cáo được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án được tống đạt hợp lệ, để yêu cầu Tòa án tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2018/HS-ST ngày 09/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:53/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về