Bản án 53/2018/HSST ngày 10/05/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 53/2018/HSST NGÀY 10/05/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 5 năm 2018, tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2018/HSST ngày 12/4/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2018/QĐXXST-HS ngày 24/4/2018 đối với bị cáo:

Lâm Thành B (Lâm Văn T), sinh ngày 13/02/1988 tại thành phố C, tỉnh Cà Mau. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số 309, ấp A, xã P, huyện S, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Tuấn K(chết) và bà Lê Thị N (chết); bị cáo có vợ tên Đỗ Thị T, sinh năm 1990 và có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2015; tiền sự, tiền án: không; bị bắt, tạm giam ngày 27/12/2017 đến nay và bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

1. Anh Trần Tứ H, sinh năm 1981. Địa chỉ: số 26A, đường D, khóm 7, phường L, thành phố L, tỉnh An Giang. (vắng mặt)

2. Anh Trương Anh H, sinh năm 2000. Địa chỉ: số 370, tổ 9, khóm C, phường B, thành phố Đ, tỉnh An Giang. (vắng mặt)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Hứa Huy T, sinh năm 1984. Địa chỉ: số 623, đường S, khóm 4, phường Xn, thành phố L, tỉnh An Giang. (vắng mặt)

2. Anh Trần Việt T, sinh năm 1989. Địa chỉ: số 1144, khóm 1, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang. (vắng mặt)

3. Anh Nguyễn Hà H, sinh năm 1971. Địa chỉ: ấp 2, thị trấn A, huyện T, tỉnh An Giang. (vắng mặt)

4. Chị Trần Thị Ngọc T, sinh năm 1981. Địa chỉ: số 646/17, tổ 3, khóm Đ, phường X, thành phố L, tỉnh An Giang. (vắng mặt)

5. Anh Võ Văn Hoàng, sinh năm 1963. Địa chỉ: số 81/5, khóm Đông Thịnh 2, phường Mỹ Phước, Tp.Long Xuyên, tỉnh An Giang. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

 Lâm Thành B, Trương Anh H cùng làm thuê cho anh Trần Tứ H từ tháng10/2017. B quản lý tiệm game bắn cá 666 tại phường B, thành phố L và được anh H giao xe mô tô biển số 67AA-058.60 để quản lý, sử dụng, còn H quản lý tiệm game bắn cá P tại phường L, thành phố L. Khoảng 02 giờ rạng sáng ngày 27/12/2017, H đến tiệm game bắn cá 666 để ngủ thì B mượn chiếc điện thoại di động Iphone 5 của Hào sử dụng (chiếc điện thoại này anh H đưa cho H sử dụng). Sau đó, B điều khiển xe mô tô biển số 67AA-058.60 chở T (không rõ họ, địa chỉ) đến tiệm game bắn cá 26 ở phường L do Hứa Huy T quản lý chơi game, khi thua hết tiền thì B cầm cố xe mô tô trên cho T với số tiền 2.000.000 đồng để tiếp tục chơi game và đưa chìa khóa nhờ Trần Việt T về mở cửa, quản lý tiệm game bắn cá 666.

Đến khoảng 04 giờ ngày cùng ngày, T đem 950.000 đồng tiền bán thẻ game đến tiệm game bắn cá 26 giao cho B. B sử dụng số tiền này chơi game và bị thua hết. Lúc này, B nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô biển số 67AB-002.06 của anh H để tại tiệm game bắn cá 666. Thực hiện ý định này, B nhờ T mượn xe mô tô của T chở T về tiệm game bắn cá 666 lấy xe mô tô 67AB-002.06 đem đến tiệm game 26 cho B. Do nghĩ xe mô tô 67AB-002.06 là của B nên T và Tđi lấy giao cho B. B cầm cố xe mô tô này cho T với số tiền 2.000.000 đồng để chơi game bị thua hết nên cầm điện thoại Iphone 5 (mượn của H) cho T với số tiền 1.000.000 đồng tiếp tục chơi game và bị thua hết. Khoảng 09 giờ 30 phút sáng cùng ngày, anh H đến tiệm game 666 không thấy xe mô tô biển 67AB-002.06 và 67AA-058.60 nên hỏi thì B nói dối cho T mượn. Anh H điện thoại cho T nên biết B đã cầm 02 xe mô tô trên cho T nên đến Công an phường B tố giác. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Công an phường B tạm giữ xe mô tô 67AB-002.06 và 67AA-058.60 do anh Hứa Huy T giao nộp. Riêng chiếc điện thoại Iphone 5, anh Trần Tứ H đã chuộc để giao lại cho người đã cầm cho anh H.

Kết luận định giá tài sản số 120/KL.HĐ ngày 27/12/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố L, xác định: Xe mô tô 67AA-058.60, trị giá 6.000.000 đồng; Xe mô tô 67AB-002.06, trị giá 6.000.000 đồng; Điện thoại Iphone 5, trị giá: 2.515.000 đồng.

Cáo trạng số: 47/CT-VKS ngày 11/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, truy tố Lâm Thành B (Lâm Văn T) về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 và tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà sơ thẩm:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:Về trách nhiệm hình sự: điểm b khoản 1 Điều 140 BLHS 1999; khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 55 BLHS 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Lâm Thành B (Lâm Văn T) từ 09 tháng đến 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Trần Tứ H, Trương Anh H đã nhận tài sản, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hứa Huy T không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm về dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.

* Bị cáo Lâm Thành B khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án, về tội danh, còn về hình phạt bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm về lo cho gia đình, con bị cáo còn nhỏ, bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội vừa qua.

* Người bị hại Trần Tứ H, Trương Anh H; người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hứa Huy T, Trần Việt T, Nguyễn Hà H, Trần Thị Ngọc T, Võ Văn H vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không kêu oan, không khiếu nại.

 [2] Về thủ tục tố tụng: Người bị hại Trần Tứ H, Trương Anh H; người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hứa Huy T, Trần Việt T, Nguyễn Hà H, Trần Thị Ngọc T, Võ Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai và làm rõ các tình tiết vụ án nên việc vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

 [3] Về áp dụng pháp luật:

Vụ án Lâm Thành B (Lâm Văn T) được điều tra, khởi tố theo Bộ luật hình sự 1999 đã sửa đổi, bổ sung năm 2009 Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Tòa án mở phiên tòa xét vụ án, Bộ luật hình sự 2015 đã có hiệu kể từ ngày 01/01/2018 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được áp dụng.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo Biển về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 140 Bộ luật hình sự 1999. Hội đồng xét xử đối chiếu theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” so với quy định tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 thì khung hình phạt tại khoản 1 Điều 175 không có lợi cho bị cáo nên việc truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với qui định tại Điều 7 Bộ luật hình sự 2015 và điểm b khoản 2 Nghị quyết 41/2017/QH ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự 2015.

 [4] Về trách nhiệm hình sự:

Ngày 27/12/2017, bị cáo Lâm Thành B đã lợi dụng sự tín nhiệm của anh Trần Tứ H giao chiếc xe mô tô biển số 67AA-058.60, anh Trương Anh H giao điện thoại di động hiệu Iphone 5 để sử dụng và đem cầm cố lấy tiền chơi game cùng với số tiền 950.000đ (do Trần Việt T bán thẻ game của anh H giao lại cho B). Ngoài ra, Biển còn thực hiện hành vi lấy trộm chiếc xe mô tô biển số 67AB-002.06 của H để cầm cố cho Hứa Huy T lấy tiền chơi game bắn cá. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra vụ án.

Tài sản bị cáo chiếm đoạt có tổng giá trị là 15.465.000đ. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo Lâm Thành B hai tội danh theo điểm b khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ 03 tháng đến 03 năm; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 có khung hình phạt từ 06 tháng đến 03 năm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự 1999 và khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

Đối với Hứa Huy T đã có hành vi nhận cầm cố tài sản cho bị cáo B nhưng T không biết tài sản trên do Biển phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Riêng, Trần Việt T và người tên T (không rõ họ, địa chỉ) đã có hành vi giúp sức cho bị cáo B lấy xe mô tô 67AB-002.06 nhưng cả hai không biết mục đích của Biển lấy trộm của anh Trần Tứ H để đem cầm cố nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ.

 [5] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội:

Bị cáo là thanh niên đã trưởng thành, khỏe mạnh, nhận thức được hành vi của bản thân. Lẽ ra, khi được anh Trần Tứ H nhận vào làm việc và sinh sống cùng gia đình tiệm game 666 cũng như tin tưởng giao tài sản cho bị cáo sử dụng thì bị cáo phải tận tâm làm việc cho tốt để tạo ra thu nhập ổn định để lo cho gia đình, sống có ích cho xã hội để làm tấm gương nuôi dạy con cháu. Thế nhưng ngược lại, bị cáo đã lợi dụng sự tin tưởng này để tìm cách chiếm đoạt tài sản đem cầm cố thế chấp để lấy tiền chơi game và tiếp tục thực hiện hành vi lấy trộm tài sản tại tiệm game nơi bị cáo được anh H giao quản lý, điều này thể hiện sự liều lĩnh, bất chấp tất cả uy tín, danh dự để có tiền ăn chơi. Bị cáo biết rõ hành vi trên là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, điều này thể hiện bị cáo xem thường pháp luật. Do đó, cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ thực hiện hành vi của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân biết tôn trọng pháp luật, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.

 [6] Về nhân thân:

Ngày 13/8/2010, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố C xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án nhưng cũng thể hiện bị cáo có nhân thân không tốt.

 [7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tuy nhiên có xem xét, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, quá trình điều tra người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được Hội đồng xét xử xem xét.

 [8] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại đã nhận lại tài sản, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm về dân sự nên Hội đồng xét xử không xét đến.

 [9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lâm Thành B (Lâm Văn T) phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào: điểm b khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự 1999; khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 7, Điều 38, Điều 55 Bộ luật hình sự 2015; Điều 136; Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự 2015Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 06 năm 2017 của Quốc hội; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt bị hại Trần Tứ H, Trương Anh H; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hứa Huy T, Trần Việt T, Nguyễn Hà H, Trần Thị Ngọc T, Võ Văn H.

Tuyên xử:

 [1] Xử phạt: Bị cáo Lâm Thành B (Lâm Văn T) 01(một) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2017.

 [2] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

 [3] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2018/HSST ngày 10/05/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và trộm cắp tài sản

Số hiệu:53/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về