Bản án 53/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 53/2018/HS-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2018/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2018/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

NGUYỄN THANH T, sinh năm 1985; hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: khối H, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh N, sinh năm 1958 và bà Lê Thị T (chết); vợ: Trần Thị Lâm V, sinh năm 1990 và có 01 con, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/9/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Chị Trịnh Thúy Phương L, sinh năm 1999 (Vắng mặt – có yêu cầu);

Trú tại: Khối M, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Trần Thị Lâm V, sinh năm 1990 (Có mặt);

Trú tại: Khối H, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định.

- Người làm chứng:

+ NLC1, sinh năm 1999 (Vắng mặt – có yêu cầu);

Trú tại: Khối P, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định.

+ NLC2, sinh năm 2002(Vắng mặt – có yêu cầu); cầu);

Người giám hộ: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1975 (Vắng mặt – có yêu cầu);

Đồng trú tại: thôn B, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

+ NLC3, sinh năm 2001(Vắng mặt – có yêu cầu);

Người giám hộ: Ông Đỗ Tân B, sinh năm 1978 (Vắng mặt – có yêu cầu);

Đồng trú tại: Thôn P, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định.

+ NLC4, sinh năm 2001(Vắng mặt – có yêu cầu);

Người giám hộ: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1976 (Vắng mặt – có yêu cầu);

Đồng trú tại: Thôn P, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định.

+ NLC5, sinh năm 2001(Vắng mặt – có yêu cầu);

Người giám hộ: Ông Đặng Hữu T, sinh năm 1975 (Vắng mặt – có yêu cầu);

Đồng trú tại: Thôn P, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định.

+ NLC6, sinh năm 1976 (Vắng mặt – có yêu cầu);

Trú tại: Khối P, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 08/9/2018, sau khi nhậu cùng một số người bạn tại xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định, Nguyễn Thanh T điều khiển xe môtô BKS 77H1-325.64 đi về nhà vợ ở thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định. Trên đường đi về, T nảy sinh ý định cướp giật điện thoại di động của người đi đường để bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 20 giờ cùng ngày, khi đến đường Đô Đốc Long thuộc khối P, thị trấn P, huyện T, T phát hiện chị Nguyễn Huỳnh H điều khiển xe môtô BKS 77H1-26234 chở sau là chị Trịnh Thúy Phương L đi ngược chiều đến, tay trái chị L đang cầm 01 điện thoại di động nên T quay xe lại và bám theo phía sau xe của chị H. T vừa đi vừa giả vờ nghe điện thoại rồi điều khiển xe chạy vượt lên, áp sát phía bên trái chị L và dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại của chị L xong quay xe lại bỏ chạy khoảng 3,8m thì bị trượt ngã. T đứng dậy, giấu điện thoại cướp giật được vào túi quần bên trái rồi dựng xe đứng dậy tiếp tục điều khiển bỏ chạy. Chị H và L tri hô: “Cướp, cướp” và điều khiển xe môtô đuổi theo. Khi đến trước quán cà phê Galaxy đường Trần Hưng Đạo thuộc khối P, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định, xe T điều khiển va chạm với xe môtô BKS 77AG – 008.10 do Nguyễn Võ Xuân T đang điều khiển chuyển hướng quađường, làm T té ngã xuống đường. Chị H và L cũng  vừa đuổi kịp đến tri hô cùng người dân bắt giữ và báo cáo cơ quan Công an.

Vật chứng Cơ quan CSĐT – Công an huyện Tây Sơn đã thu giữ là 01 điện thoại di động cảm ứng hiệu Samsung Galaxy J3 Pro, vỏ màu vàng, số IMEI: 358868081141218 và 358869081141216; 01 xe môtô nhãn hiệu Wave RSX, màu sơn xanh, BKS 77H1-325.64. Những tài sản trên, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tây Sơn đã trả lại chủ sở hữu.

Theo kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Tây Sơn, chiếc điện thoại Samsung Galaxy J3 Pro tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng).

Tại Bản cáo trạng số 39/CT-VKSTS ngày 01/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm d Khoản 2 Điều 171; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

- Về bồi thường thiệt hại: Tài sản bị chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho người bị hại và bị hại không yêu cầu bồi thường gì nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tây Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về chứng cứ xác định có tội: Muốn có tiền tiêu xài cá nhân, vào khoảng 20 giờ ngày 08/9/2018, tại đoạn đường Đô Đốc Long thuộc khối P, thị trấn P, huyện T, bị cáo Nguyễn Thanh T điều khiển xe mô tô BKS 77H1 – 325.64 thực hiện hành vi dùng tay phải giật 01 điện thoại di động cảm ứng hiệu Samsung Galaxy J3 Pro, vỏ màu vàng của chị Trịnh Thúy Phương L đang cầm trên tay trái và ngồi phía sau xe mô tô BKS 77H1 – 26234 do chị Nguyễn Huỳnh H điều khiển. Hành vi của bị cáo phạm vào tội “Cướp giật tài sản” quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

 [3] Xét tình tiết định khung hình phạt: Khi phát hiện tay trái chị L đang cầm 01 điện thoại di động ngồi sau xe môtô do chị H điều khiển xe môtô đi ngược chiều xe của bị cáo, bị cáo quay xe lại và bám theo phía sau xe môtô của chị H. Sau đó bị cáo điều khiển xe chạy vượt lên, áp sát phía bên trái chị L và dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại của chị L rồi quay xe lại bỏ chạy. Bị cáo đã dùng thủ đoạn nguy hiểm để cướp giật tài sản của chị L. Hành vi của bị cáo là tình tiết định khung quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) có khung hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

 [4] Xét hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến tài sản của chị L một cách trái pháp luật mà còn gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo chạy xe mô tô tiếp cận người bị hại đang ngồi trên xe mô tô để giật tài sản đây là hành vi nguy hiểm có thể gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại và gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân.

 [5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

 [6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho người bị hại và người bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là dân lao động nghèo có hoàn cảnh khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nên xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo. Nhưng xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo thì phải có thời gian cải tạo cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian như mức đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn thì mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

 [7] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho người bị hại, người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.

 [8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 của BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Cần buộc bị cáo Nguyễn Thanh T chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s Khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017):

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 03 (Ba) năm tù.

Thời hạn tù của bị cáo Nguyễn Thanh T tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (Ngày 08/9/2018).

2. Về trách nhiệm dân sự: Miễn xét.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo và các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Án xử vắng mặt người bị hại là chị Trịnh Thúy Phương L, chị L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

332
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:53/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về