Bản án 53/2019/HS-ST ngày 08/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 53/2019/HS-ST NGÀY 08/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 62/2019/TLT-HS ngày 16 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Xuân M; Sinh ngày 25 tháng 3 năm 1977 tại tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: thôn x, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông: Đặng Thanh B và Bà Nguyễn Thị H; Có vợ là Nguyễn Thị M; Bị cáo có 02 con (con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2010).

Nhân thân: Quyết định số 1693 ngày 08/11/2011 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh Thái Bình đưa đi cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng tại Trung tâm cai nghiện tỉnh Thái Bình. Chấp hành xong ngày 15/11/2012.

Tiền án, tiền sự: Không Bị bắt, tạm giữ từ ngày 11/6/2019 đến ngày 19/6/2019 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

2. Người chứng kiến:

- Anh Nguyễn Trung T, sinh năm 1982;

- Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1961,

Đều trú tại: Thôn T, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình.

(Anh T, ông K đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 5 giờ 30 phút ngày 11/6/2019, Đặng Xuân M điều khiển xe mô tô biển số đăng ký 17F6 - xxxx từ nhà lên thành phố Thái Bình để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đi đến khu đô thị gần chợ Q, thuộc phường Q, thành phố T, M đi vào một ngõ nhỏ gần đó gặp một người nam giới khoảng 40 tuổi không quen biết. Xác định là người bán ma túy, M lại gần và hỏi “Để cho cái” ý hỏi mua một gói ma túy Hêrôin với giá 100.000 đồng của người đàn ông trên, anh ta nói “đưa tiền đây”, M lấy 100.000 đồng trong người đưa cho anh ta, nhận tiền rồi anh ta đưa cho M 01 gói nhỏ được gói bằng giấy tráng kim loại màu trắng trong chứa chất tinh thể màu trắng, biết đã mua được ma túy nên M không kiểm tra mà bỏ ngay vào túi áo ngực phía trước bên trái đang mặc rồi điều khiển xe quay về. Khoảng 06 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi đến đoạn đường 454 thuộc địa phận thôn T, xã V, huyện V thì bị Công an huyện V yêu cầu kiểm tra. Tiến hành kiểm tra thu giữ tại túi áo ngực phía trước bên trái M đang mặc 01 gói nhỏ được gói bằng giấy tráng kim loại màu trắng, trong chứa chất tinh thể màu trắng, M khai là ma túy loại Hêrôin có khối lượng 0,1348 gam vừa mua về để sử dụng. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô kiểu xe DREAM sơn màu nâu biển số đăng ký 17F6 - xxxx.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại Bản kết luận giám định số: 233/KLGĐ-PC09 ngày 11/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,1348 gam (Không phẩy một nghìn ba trăm bốn mươi tám gam)” Heroin STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của chính Phủ .

Bản cáo trạng số: 63/CT-VKSVT ngày 16/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư đã truy tố Đặng Xuân M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Xuân M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Xử phạt: Đặng Xuân M mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/6/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo là đối tượng nghiện, thu nhập không ổn định.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu số ma túy, loại Hêrôin sau giám định hoàn lại còn 0,1115 gam trong bao niêm phong số 233/KLGĐ- PC09 ngày 11/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình để tiêu huỷ.

Chấp nhận việc cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tách chiếc xe mô tô kiểu xe DREAM sơn màu nâu biển số đăng ký 17F6 - xxxx ra xử lý sau.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì và không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Các chứng cứ buộc tội bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng đã mô tả và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Thái Bình lập hồi 7 giờ 15 phút ngày 11/6/2019 và Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình lập hồi 8 giờ 15 phút ngày 11/6/2019 tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình; Kết luận giám định số 233/KLGĐ-PC09 ngày 11/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Lời khai của những người chứng kiến là anh Nguyễn Trung T và ông Nguyễn Văn K.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi cất giấu trái phép tại túi áo ngực phía trước bên trái đang mặc 01 gói ma túy loại Heroin có khối lượng 0,1348 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân của Đặng Xuân M đã phạm vào tội:

“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự .

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Hêrôin có khối lượng 0,1348 gam của bị cáo Đặng Xuân M là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Trong những năm gần đây, tình hình tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa lớn của toàn nhân loại. Ma túy đã gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình. Nghiêm trọng hơn, ma túy còn là tác nhân của đại dịch HIV, AIDS và là căn nguyên làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác.

[4] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo Đặng Xuân M có nhân thân xấu, đã bị áp dụng biện pháp đưa đi cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng tại Trung tâm cai nghiện tỉnh Thái Bình theo Quyết định số 1693 ngày 08/11/2011 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh Thái Bình. Bị cáo chấp hành xong ngày 15/11/2012 nhưng sau đó vẫn tiếp tục sử dụng ma túy.

Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo. Do vậy, bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự .

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: Cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm; tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản ”.

Xét thấy, bị cáo M mua ma túy về sử dụng cho bản thân chứ không nhằm mục đích kiếm lời, bị cáo là đối tượng nghiện, không có thu nhập ổn định. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy, loại Hêrôin sau giám định hoàn lại còn 0,1115 gam trong bao niêm phong số 233/KLGĐ- PC09 ngày 11/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình là vật chứng của vụ án, thuộc loại Nhà nước độc quyền quản lý và cấm tàng trữ nên cần tịch thu để tiêu huỷ.

[6] Các vấn đề khác trong vụ án:

Đối với chiếc xe mô tô kiểu xe DREAM sơn màu nâu biển số đăng ký 17F6 - xxxx mang tên Nguyễn Ngọc T, cư trú tại thôn 10, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình. Đặng Xuân M khai nhận ông T là bố vợ M, đã cho hai vợ chồng từ năm 2011 nhưng không có thủ tục sang tên, đồng thời hiện ông T vắng mặt khỏi địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V tách ra xử lý sau là đúng quy định nên chấp nhận không đặt ra giải quyết.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Đặng Xuân M do chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 135; Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Xuân M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt Đặng Xuân M 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/6/2019.

3. Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Tịch thu số ma túy, loại Hêrôin sau giám định hoàn lại còn 0,1115 gam và toàn bộ bao gói trong bao niêm phong số 233/KLGĐ- PC09 ngày 11/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình để tiêu huỷ.

(Vật chứng của vụ án đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện V theo Phiếu nhập kho vật chứng ngày 17/9/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Đặng Xuân M phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Đặng Xuân M có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 08/10/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2019/HS-ST ngày 08/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:53/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về