Bản án 54/2017/HNGĐ-PT ngày 23/11/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 54/2017/HNGĐ-PT NGÀY 23/11/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 61/2017/TLPT-HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2017 về việc xin ly hôn.

Do bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 86/2017/HNGĐ-ST ngày 05/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Nbị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 264/2017/QĐPT-HNGĐ ngày 31 tháng 10 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Mỹ Ph, sinh năm: 1988 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp K, xã V, huyện N, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Duy Kh, sinh năm 1987 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp K, xã V, huyện N, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị Đ, sinh năm 1964 (có mặt).

2. Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1959 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp K, xã V, huyện N, tỉnh Cà Mau.

3. Bà Nguyễn Thị X(vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau.

4. Ngân hàng N - Chi nhánh huyện Ng (vắng mặt).

Địa chỉ: khóm 1, thị trấn R, huyện N, tỉnh Cà Mau.

5. Ban quản lý rừng phòng hộ N(vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã V, huyện N, tỉnh Cà Mau.

- Người kháng cáo: Bị đơn là anh Nguyễn Duy Kh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Trần Mỹ Ph trình bày:

Chị Trần Mỹ Ph và anh Nguyễn Duy Kh kết hôn với nhau năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện P, tỉnh Cà Mau. Chị Ph xác định nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, anh Kh đi đâu làm gì là tự quyết định Chị Ph không biết. Chị Ph xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, sống không còn hạnh phúc nên yêu cầu xin ly hôn với anh Kh.

Về con chung: Chị Ph và anh Khcó 02 người con chung tên: Nguyễn Gia L, sinh ngày 06 tháng 7 năm 2007 và Nguyễn Gia A, sinh ngày 28 tháng 11 năm 2011. Sau khi ly hôn Chị Phyêu cầu xin được nuôi Nguyễn Gia A, anh Khnuôi Nguyễn Gia L, Chị Ph không yêu cầu anh Khcấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung gồm: 01 phần đất nuôi tôm có diện tích 5,8 ha, tại ấp K, xã V, huyện N, tỉnh Cà Mau. Chị Ph thống nhất trị giá 1.050.000.000 đồng; 01 vỏ máy xe trị giá 35.000.000 đồng. Chị Ph yêu cầu chia đôi, Chị Ph nhận tiền, giao đất nuôi tôm và vỏ máy lại cho anh Khquản lý.

Về nợ thu: Chị Ph xác định cha mẹ chồng là bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn M nợ 118.000.000 đồng, sau khi trừ qua các khoản nợ thì bà Đ và ông M còn nợ 40.000.000 đồng và 05 chỉ vàng 24k; mẹ ruột Chị Ph là bà Nguyễn Thị Xnợ 20.000.000 đồng. Chị Phyêu cầu bà Đ, ông M và bà X trả lại và thống nhất chia hai với anh K.

Về nợ trả: Khoản nợ tiền mướn đất nuôi tôm hàng năm tổng cộng 75.000.000 đồng, Chị Ph đã thanh toán cho bà Đ xong, Chị Phkhông thừa nhận có nợ bà Đ số tiền 70.000.000 đồng do bà Đ cho rằng vợ chồng mượn để cất nhà. Đối với số tiền vay Ngân hàng N chi nhánh huyện N100.000.000 đồng, nợ này anh Kh đứng tên vay dùm cho cha mẹ chồng là bà Đ và ông M, vợ chồng không dùng vào mục đích gia đình nên không đồng ý chia đôi với anh Kh để thanh toán nợ.

Bị đơn anh Nguyễn Duy Kh trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian đăng ký kết hôn và nơi đăng ký kết hôn như Chị Ph trình bày là đúng. Trong cuộc sống vợ chồng không có phát sinh nhiều mâu thuẫn nhưng Chị Ph yêu cầu ly hôn anh Kh đồng ý.

Về con chung: Có 02 người con tên, tuổi như Chị Ph trình bày là đúng. Sau khi ly hôn anh Kh thống nhất nuôi Nguyễn Gia L, giao Nguyễn Gia A cho Chị Phnuôi. Anh Kh không yêu cầu Chị Ph cấp dưỡng nuôi con và anh Kh cũng không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tại biên bản hòa giải ngày 28/3/2017 anh Kh xác định diện tích đất vuông 5,8 ha tại ấp K, xã V, huyện N, tỉnh Cà Mau. Anh Khđưa ra giá trị 900.000.000 đồng, không thống nhất chia đôi giá trị bằng tiền mà chỉ đồng ý cắt đất để chia mỗi người nhận một phần. Tại biên bản hòa giải ngày 03/4/2017 và biên bản ngày 29/5/2017, anh Kh trình bày nếu Tòa án xác định phần đất vuông 5,8 ha là tài sản chung thì anh Kh vẫn đồng ý cắt đất chia đôi mỗi người một phần, không thống nhất chia giá trị bằng tiền, anh Kh thống nhất giá trị phần đất mà Chị Ph đưa ra là 1.050.000.000 đồng. Đối với vỏ máy xe anh Kh thống nhất giá trị 35.000.000 đồng, đồng ý chia hai anh Kh xin nhận tiền giao vỏ máy lại cho chị Phương.

Về nợ thu: Tại biên bản hòa giải ngày 29/5/2017 anh Khxác định là cha mẹ anh là bà Đ và ông M có nợ vợ chồng anh là 40.000.000 đồng và 05 chỉ vàng 24k; mẹ vợ anh là bà X nợ 20.000.000 đồng. Anh Kh yêu cầu thu lại và chia đôi số nợ trên với chị Phương.

Về nợ trả: Nợ Ngân hàng N huyện Nlà 100.000.000 đồng yêu cầu chia hai với Chị Ph để trả. Vì nợ này vay nhằm phục vụ mục đích gia đình.

Đối với khoản nợ tiền cất nhà của cha mẹ anh là bà Đ và ông M70.000.000 đồng là có, đối với khoản tiền mướn vuông năm đầu có trả 25.000.000 đồng, những năm sau anh không nhớ rõ có trả hay chưa.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Đ trình  bày:

Bà Đ xác định vợ chồng Phương và K còn nợ bà hai khoản nợ đó là tiền mướn vuông 75.000.000 đồng, tiền mượn cất nhà 70.000.000 đồng, tổng cộng là 145.000.000 đồng và yêu cầu Phương và K trả lại cho bà Đ. Đối với số tiền 40.000.000 đồng bà Đ thừa nhận còn nợ vợ chồng Phương, K còn 05 chỉ vàng 24k bà không có nợ nên không đồng ý trả.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn M trình bày: Ông Mxác định phần đất 5,8 ha tại ấp Kvào năm 2006, ông Mcó họp gia đình giao lại phần đất cho con là Nguyễn Duy Kh đứng tên quản lý phần đất này.

Sau khi anh Khvà Chị Ph kết hôn thì ông cho vợ chồng K mướn lại với số tiền 25.000.000 đồng/năm, mỗi năm giảm xuống 5.000.000 đồng, khi nào còn 5.000.000 đồng/năm thì trả cho ông M cho đến khi có di chúc thì không phải trả nữa. Ông M xác định khi nào có di chúc thì mới cho K toàn quyền sử dụng, đất này chỉ cho riêng anh Kh không phải cho vợ chồng K nên không đồng ý chia đất cho chị Phương. Còn khoản nợ 40.000.000 đồng và 05 chỉ vàng 24k ông M không biết rõ, vì khoảng thời gian này ông M đi nuôi tôm ở Phú Tân không có ở nhà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Xtrình bày: Bà X thừa nhận có nợ vợ chồng anh Khvà Chị Ph 20.000.000 đồng và đồng ý trả khi nào vụ kiện ly hôn giải quyết xong. Bà X có đơn xin xét xử vắng mặt.

Ban quản lý rừng phòng hộ Nxác định: Ngày 26/4/1999, Hộ gia đình ông Nguyễn Thành Song được hợp đồng giao khoán đất Lâm nghiệp tại thửa số 506, khoảnh 43, tiểu khu 211, diện tích giao khoán là 3,9 ha. Đến ngày 12/4/2012 ông Song có đơn xin chuyển nhượng thành quả lao động lại cho hộ gia đình ông Nguyễn Duy Kh. Ngày 30/02/2015 ông Nguyễn Duy Kh được thiết lập hợp đồng nhưng phải bổ sung hồ sơ. Sau khi bổ sung hồ sơ thì ngày 23/7/2015 ông K được giao sổ hợp đồng giao khoán số 1268. Vị trí thửa đất số 187, 188, khoảnh 42, tiểu khu 211, diện tích 58.100,5m2, diện tích thay đổi là do căn cứ vào trích lục địa chính ngày 22/10/2013 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên Môi trường trích lục. Thời hạn hợp đồng là 20 năm. Hợp đồng cấp cho ông Nguyễn Duy Kh là hợp đồng cấp cho Hộ gia đình, đại diện là ông Nguyễn Duy Kh đứng tên. Ngoài ra Ban quản lý còn xác định việc chia cắt đất chỉ thực hiện được khi đường chia cắt không làm ảnh hưởng đến rừng và đất rừng, đồng thời phải đảm bảo việc khôi phục đất rừng theo quy định. Ban quản lý xin vắng mặt khi xét xử.

Tại bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 86/2017/HNGĐ-ST ngày 05/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Nquyết định:

- Về hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn của chị Trần Mỹ Ph đối với anh Nguyễn Duy Kh.

- Về con chung: Giao con tên Nguyễn Gia A, sinh ngày 28 tháng 11 năm 2011 cho chị Trần Mỹ Ph nuôi dưỡng. Giao con tên Nguyễn Gia L, sinh ngày 06 tháng 7 năm 2007 cho anh Nguyễn Duy Kh nuôi dưỡng. Chị Trần Mỹ Ph và anh Nguyễn Duy Kh có quyền thăm nom, chăm sóc giáo dục con theo quy định của pháp luật nhưng không được lạm dụng quyền thăm nom, chăm sóc giáo dục con để cản trở việc nuôi con của nhau.

- Về tài sản: Anh Nguyễn Duy Kh được quản lý, sử dụng diện tích đất 58.100,5 m2 theo sổ hợp đồng giao khoán số 1268 vị trí thửa số 187, 188, khoảnh 42, tiểu khu 211, tại ấp K, xã V, huyện N, tỉnh Cà Mau. Anh Nguyễn Duy Kh có nghĩa vụ giao lại cho chị Trần Mỹ Ph giá trị bằng tiền là 450.000.000 đồng (Bốn trăm năm mươi triệu đồng).

Đối với phần tài sản là 01 vỏ máy xe, Chị Phvà anh Khthống nhất là tài sản chung và thống nhất giá trị 35.000.000 đồng, vỏ máy xe hiện nay do anh Khquản lý nên anh Kh tiếp tục được quản lý và có nghĩa vụ giao lại cho Chị Ph giá trị bằng tiền là 17.500.000 đồng.

- Về nợ thu: Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Mỹ Ph và anh Nguyễn Duy Kh về yêu cầu bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn M thanh toán nợ. Buộc bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn M thanh toán cho chị Trần Mỹ Ph là 20.000.000 đồng; thanh toán cho ông Nguyễn Duy Kh 20.000.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu còn lại của chị Trần Mỹ Ph và anh Nguyễn Duy Kh là 05 chỉ vàng 24k, trị giá chị Trần Mỹ Ph và anh Nguyễn Duy Kh thống nhất là 16.500.000 đồng.

- Về nợ trả: Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Lê Thị Đ. Buộc chị Trần Mỹ Ph, anh Nguyễn Duy Kh mỗi người có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị Đ 37.500.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Đ với số tiền 70.000.000 đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất do chậm trả, án phí và quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Ngày 12 tháng 9 năm 2017 anh Kh có đơn kháng cáo, anh không đồng ý giao Chị Ph 450.000.000 đồng vì phần đất diện tích 58.100,5m2 không phải là tài sản chung mà là tài sản của cha mẹ anh Khcho riêng anh K. Tại phiên tòa phúc thẩm anh Khgiữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử là đúng pháp luật tố tụng dân sự và đề nghị giữ nguyên bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét nội dung đơn kháng cáo của anh Nguyễn Duy Kh, Hội đồng xét xử xét thấy:

Phần đất này nguồn gốc trước đây là của ông M và bà Đ được anh Khvà Chị Ph thừa nhận, nhưng theo hồ sơ thể hiện ngày 26/4/1999, hộ gia đình ông Nguyễn Thành Song được hợp đồng giao khoán đất lâm nghiệp tại thửa số 506, khoảnh 43, tiểu khu 211, diện tích giao khoán là 3,9 ha. Đến ngày 12/4/2012 ông Song có đơn xin chuyển nhượng thành quả lao động lại cho Hộ gia đình ông Nguyễn Duy Kh. Ngày 30/02/2015 ông Nguyễn Duy Kh được thiết lập hợp đồng nhưng phải bổ sung hồ sơ. Sau khi bổ sung hồ sơ thì ngày 23/7/2015 ông K được giao sổ hợp đồng giao khoán số 1268. Vị trí thửa đất số 187, 188, khoảnh 42, tiểu khu 211, diện tích 58.100,5m2, diện tích thay đổi là do căn cứ vào trích lục địa chính ngày 22/10/2013 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường trích lục. Thời hạn hợp đồng là 20 năm. Hợp đồng cấp cho ông Nguyễn Duy Kh là hợp đồng cấp cho hộ gia đình, đại diện là ông Nguyễn Duy Kh đứng tên. Tuy nhiên trước đây anh Kh được ông M và bà Đ họp gia đình phân chia đất cho anh Kh đứng tên quản lý có sự chứng kiến của ông Triệu, ông Cảnh và bà Tư vào năm 2006. Vì vậy xác định diện tích đất trên là của anh Nguyễn Duy Kh.

Năm 2007 anh Kh và Chị Ph kết hôn và sau đó cả anh Khvà Chị Ph trực tiếp quản lý đất để canh tác phục vụ cuộc sống gia đình. Mặc dù đất ông M và bà Đ đã giao cho anh Kh quản lý nhưng theo thỏa thuận thì anh Kh và Chị Ph phải trả lại tiền thuê đất hàng năm cho ông M và bà Đ, mỗi năm 25.000.000 đồng, đây là thỏa thuận cho đất có điều kiện.

Năm 2015 anh Kh được Ban quản lý rừng phòng hộ N là cơ quan quản lý đất ký hợp đồng giao khoán đất lâm nghiệp số 1268 với diện tích là 58.100,5m2. Vị trí thửa số 187, 188, khoảnh 42, tiểu khu 211 theo đo đạc thực tế của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường trích lục. Đất này anh Kh và Chị Ph vẫn trực tiếp canh tác.

Tại Công văn số 54/BQL ngày 23/8/2017 và công văn bổ sung số 68/BQL ngày 01/9/2017, Ban quản lý rừng phòng hộ N xác định phần đất 58.100,5m2 là phần đất được cấp cho hộ gia đình, người đại diện đứng tên là ông Nguyễn Duy Kh. Như vậy, mặc dù đất trước đây anh Kh được cha mẹ cho riêng nhưng anh Kh đã tự nguyện sáp nhập là tài sản chung của anh và Chị Phnên khi xác lập hợp đồng giao khoán đất thì anh Kh đồng ý để Ban quản lý rừng phòng hộ N ký hợp đồng giao khoán đất lâm nghiệp cho hộ gia đình anh Khvào năm 2015. Vì vậy xác định diện tích đất 58.100,5 m2 là tài sản chung của vợ chồng Chị Ph và anh K.

Tuy nhiên, xét về nguồn gốc đất, điều kiện để Chị Ph và anh Kh có được tài sản chung, phần đất này thì công sức đóng góp của Chị Ph là ít hơn so với anh K. Do đó cấp sơ thẩm chia cho anh Kh nhiều hơn so với Chị Ph trong giá trị phần đất có diện tích 58.100,5m2 là phù hợp với điểm b, khoản 2 Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Chị Phvà anh Kh thống nhất giá trị đất là 1.050.000.000 đồng.

Do toàn bộ phần đất hiện nay anh Kh đang quản lý, Chị Phyêu cầu chia giá trị bằng tiền và giao đất cho anh Khtiếp tục quản lý sử dụng toàn bộ diện tích đất theo sổ hợp đồng là 58.100,5m2. Anh Kh phải chia lại cho Chị Phgiá trị bằng tiền là 450.000.000 đồng, anh Khđược hưởng giá trị là 600.000.000 đồng là phù hợp.

Riêng đối với phần tài sản là 01 vỏ máy xe, Chị Phvà anh Kh thống nhất là tài sản chung và thống nhất giá trị 35.000.000 đồng, vỏ máy xe hiện nay do anh Kh quản lý nên anh Kh tiếp tục được quản lý và có nghĩa vụ giao lại cho Chị Phgiá trị bằng tiền là 17.500.000 đồng.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Kh không có chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của anh Khnên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Những nội dung khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Khnên anh Khphải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Duy Kh.

Giữ nguyên bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 86/2017/HNGĐ-ST ngày 05/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện N.

- Về tài sản: Anh Nguyễn Duy Kh được trực tiếp quản lý, sử dụng diện tích đất 58.100,5 m2 theo sổ hợp đồng giao khoán số 1268 vị trí thửa số 187, 188, khoảnh 42, tiểu khu 211, tại ấp K, xã V, huyện N, tỉnh Cà Mau. Anh Nguyễn Duy Kh có nghĩa vụ giao lại cho chị Trần Mỹ Ph giá trị bằng tiền là 450.000.000 đồng (Bốn trăm năm mươi triệu đồng).

Anh Khđược tiếp tục sở hữu một vỏ máy xe hiện nay do anh Khquản lý, anh Khcó nghĩa vụ giao lại cho Chị Phgiá trị bằng tiền là 17.500.000 đồng (Mbảy triệu năm trăm ngàn đồng).

- Về nợ thu: Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Mỹ Ph và anh Nguyễn Duy Khvề yêu cầu bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn M thanh toán nợ.

Buộc bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn M thanh toán cho chị Trần Mỹ Ph là 20.000.000 đồng; thanh toán cho ông Nguyễn Duy Kh 20.000.000 đồng.Không chấp nhận yêu cầu của chị Trần Mỹ Ph và anh Nguyễn Duy Kh là 05 chỉ vàng 24k.

- Về nợ trả: Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Lê Thị Đ.

Buộc chị Trần Mỹ Ph, anh Nguyễn Duy Kh mỗi người có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị Đ 37.500.000 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Đ yêu cầu chị Trần Mỹ Ph, anh Nguyễn Duy Kh trả số tiền 70.000.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Về án phí: Chị Trần Mỹ Ph phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 200.000 đồng. Đã qua Chị Ph có dự nộp 200.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0013360 ngày 09 tháng 12 năm 2016 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển được đối trừ.

- Án phí chia tài sản chị Trần Mỹ Ph phải nộp là 22.700.000 đồng. Án phí có giá ngạch trên số tiền Chị Ph phải trả cho bà Đ, Chị Ph phải nộp là: 1.875.000 đồng. Án phí không chấp nhận yêu cầu của Chị Phvề việc yêu cầu bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn M thanh toán 05 chỉ vàng 24k Chị Ph phải nộp là: 412.500 đồng. Đã qua Chị Ph có dự nộp 15.521.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0013491 ngày 08 tháng 3 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển được đối trừ. Chị Ph còn phải tiếp tục nộp 9.466.500 đồng.

- Án phí chia tài sản anh Nguyễn Duy Kh phải nộp là: 28.700.000 đồng.

- Án phí chấp nhận yêu cầu thanh toán nợ đối với bà Lê Thị Đ, anh Nguyễn Duy Kh phải nộp là 1.875.000 đồng.

Án phí không chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Duy Kh về việc yêu cầu bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn M thanh toán 05 chỉ vàng 24k anh Kh phải nộp là: 412.500 đồng.

Án phí dân sự sơ thẩm có ngạch về việc yêu cầu thanh toán nợ của bà Lê Thị Đ đối với chị Trần Mỹ Ph và anh Nguyễn Duy Kh không được chấp nhận, bà Lê Thị Đ phải nộp là 3.500.000 đồng.

Án phí có giá ngạch đối với khoản nợ bà Lê Thị Đ phải trả cho chị Trần Mỹ Ph và anh Nguyễn Duy Kh bà Đ phải chịu là 2.000.000 đồng. Đã qua bà Lê Thị Đ có dự nộp số tiền 3.625.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0013543 ngày 05 tháng 4 năm 2017 được đối trừ. Bà Lê Thị Đ còn phải tiếp tục nộp số tiền 1.875.000 đồng.

Án phí hôn nhân và gia đình phúc thẩm: Anh Kh phải chịu 300.000 đồng, đã qua anh Kh có dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0013843 ngày 12/9/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển được chuyển thu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2017/HNGĐ-PT ngày 23/11/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:54/2017/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về