Bản án 54/2017/HNGĐ-ST ngày 27/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 54/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 27 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 143/2017/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2017 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 46/2017/QĐST-DS ngày 11 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thùy T.

Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Bị đơn: Ông Tiêu Hán Đ.

Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29 tháng 6 năm 2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Nguyễn Thùy T trình bày:

Vào năm 1999, bà Nguyễn Thùy T và ông Tiêu Hán Đ đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện M (nay là huyện T), tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 18 ngày 12/6/1999. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng bà T và ông Đ hạnh phúc và có hai con chung là Tiêu Ngọc Tố M, sinh ngày 14/10/1999 và Tiêu Ngọc Tố Q, sinh ngày 07/7/2001. Đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên bất hòa và cãi vã. Từ năm 2014 đến năm 2015, bà T đã hai lần xin ly hôn và được Tòa án nhân dân huyện T thụ lý, mỗi lần bà T gửi đơn xin ly hôn thì ông Đ thường xuyên tạo áp lực, thậm chí gây khủng hoảng tinh thần cũng như gây khó dễ trong cuộc sống của mẹ con bà, cả hai lần đều được Tòa án hòa giải và ông Đ hứa sẽ sửa đổi nên bà T đã rút đơn và chính thức sống ly thân từ tháng 9 năm 2015 (do ông Đ muốn ly thân). Đến nay, bà T nhận thấy bà và ông Đ không còn tình cảm với nhau, không thể duy trì tình cảm vợ chồng nên bà làm đơn xin ly hôn. Về tài sản chung tự thỏa thuận. Về nợ chung không có.

Nay bà Nguyễn Thùy T yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thùy T yêu cầu được ly hôn với ông Tiêu Hán Đ.

- Về con chung: Tiêu Ngọc Tố M, sinh ngày 14/10/1999 và Tiêu Ngọc Tố Q, sinh ngày 07/7/2001 đã lớn hiện đang đi học, nếu có nguyện vọng ở với ai sẽ theo nguyện vọng của 02 cháu. Trong trường hợp cháu M và cháu Q có nguyện vọng được sống chung với bà T thì bà sẽ trực tiếp nuôi dưỡng không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung, nếu cháu M và cháu Q có nguyện vọng được sống chung với ông Đ thì ông Đ trực tiếp nuôi dưỡng, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã ban hành thông báo thụ lý vụ án số 143/TB-TLVA ngày 14 tháng 7 năm 2017, tống đạt hợp lệ cho bị đơn ông Tiêu Hán Đ, nhưng ông Đ không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà T. Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ 02 lần đối với ông Đ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông Đ đều vắng mặt không có lý do, nên Tòa án lập biên bản không tiến hành hòa giải được và cũng không có lời khai trong hồ sơ vụ án. Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự, trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, riêng bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án, xét thấy nguyên đơn, bị đơn thường xuyên mâu thuẫn với nhau do bất đồng ý kiến, không còn sống chung với nhau thời gian dài, không hàn gắn được nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn; về con chung giao cháu Tiêu Ngọc Tố M, sinh ngày 14/10/1999 và Tiêu Ngọc Tố Q, sinh ngày 07/7/2001 cho nguyên đơn nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi. Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải cấp dưỡng nuôi con chung nên không đặt ra xem xét.

Về án phí nguyên đơn có đơn yêu cầu xin ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng trong vụ án ly hôn. Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử nghị án và tuyên án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng:

 [2] Đối với bị đơn ông Tiêu Hán Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Tiêu Hán Đ.

 [3] Về nội dung:

 [4] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thùy T, sinh năm 1974 và ông Tiêu Hán Đ, sinh năm 1974 tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện M (nay là huyện T), tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 18 ngày 12/6/1999 nên quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thùy T và ông Tiêu Hán Đ là hợp pháp.

 [5] Xét lý do xin ly hôn của bà T, Hội đồng xét xử thấy, sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng bà T, ông Đ hạnh phúc được một thời gian. Đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên bất hòa và cãi vã. Đến tháng 9 năm 2015, ông, bà tuy sống chung nhà nhưng mạnh ai nấy sống và ông, bà đã bỏ mặc nhau làm cho tình trạng hôn nhân của vợ chồng ông, bà trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T.

 [6] Về con chung: Tại phiên toà sơ thẩm, bà Trang yêu cầu được nuôi con chung là cháu Tiêu Ngọc Tố M, sinh ngày 14/10/1999 và Tiêu Ngọc Tố Q, sinh ngày 07/7/2001 đến tròn 18 tuổi. Xét yêu cầu được nuôi con chung của bà T, tại các văn bản trình bày ý kiến cùng ngày 04/8/2017, cháu Tiêu Ngọc Tố M và cháu Tiêu Ngọc Tố Q thể hiện nguyện vọng của các cháu muốn được sống chung với mẹ là bà T nên căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận giao hai cháu Tiêu Ngọc Tố M và Tiêu Ngọc Tố Q cho bà T nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi là phù hợp.

 [7] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa, nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

 [8] Căn cứ vào khoản 1, 3 Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình, ông Tiêu Hán Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Ông Đ không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của bà T.

 [9] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

 [10] Xét đề nghị của kiểm sát viên về nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [11] Về án phí: Bà Nguyễn Thùy T là người có đơn xin ly hôn nên căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng. Ông Tiêu Hán Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, khoản 1 và khoản 2 Điều 81, khoản 1 và khoản 3 Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thùy T và ông Tiêu Hán Đ được ly hôn.

2. Về con chung: Giao hai cháu Tiêu Ngọc Tố M, sinh ngày 14/10/1999 và Tiêu Ngọc Tố Q, sinh ngày 07/7/2001 cho bà Nguyễn Thùy T nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi. Ông Tiêu Hán Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Ông Đ không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của bà T.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thùy T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thùy T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

5. Về án phí: Bà Nguyễn Thùy T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2015/ 0006401 ngày 11 tháng 7 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng và như vậy bà Nguyễn Thùy T đã nộp xong án phí.

6. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2017/HNGĐ-ST ngày 27/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:54/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về