Bản án 54/2017/HSST ngày 07/09/2017 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 54/2017/HSST NGÀY 07/09/2017 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 9 năm 2017, tại Văn phòng ấp A, xã Tân Long, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lưu động vụ án hình sự thụ lý số 54/2017/HSST ngày 24 tháng 8 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2017/HSST-QĐ ngày 25 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn An K (tên gọi khác: N), sinh năm 1996 tại TP. Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Ấp C, xã D, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn S và bà Huỳnh Thị M; tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án: Ngày 19/9/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành án tại Trại giam Tống Lê Chân, Tổng cục VIII, Bộ Công an đến ngày 10/10/2015 được trả tự do trở về địa phương sinh sống.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/6/2017 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Hữu T, sinh năm 1965; Nơi cư trú: Khóm X, phường Y, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Vắng mặt

2. Bà Lê Thu B, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Phường P, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt

3. Ông Trịnh Xuân H2, sinh năm 1990; Nơi cư trú: Phường N, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt

Người làm chứng:

Nguyễn H, sinh năm 1998; Nơi cư trú: Ấp E, xã H, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 18/6/2017, Nguyễn An K rủ Nguyễn H điều khiển xe mô tô biển số 69K3 - 1234 chở K đi từ xã H, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước xuống Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh để K lấy quần áo, H đồng ý. Khi xuống đến nơi, K nói H vào quán nước chờ, còn K điều khiển xe mô tô đến khu vực ngã tư An Sương mua 01 bịch ma túy với số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) của một người đàn ông khoảng 30 tuổi (không rõ nhân thân lai lịch) để sử dụng. Số ma túy này được đựng trong bịch nylon miệng kéo dính, bỏ trong bao thuốc lá hiệu Jet. K bỏ ma túy vào túi áo khoác màu xanh mặc trên người rồi quay lại quán nước gặp H nhưng không nói cho H biết việc K vừa đi mua ma túy. Sau đó, H điều khiển xe mô tô chở K quay về huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 19/6/2017, khi K, H đi trên đường ĐT 741 đến khu vực ấp G, xã P, huyện Phú Giáo thì bị lực lượng tuần tra Công an huyện Phú Giáo bắt quả tang, tạm giữ K cùng tang vật là 01 bịch nylon miệng kéo dính bên trong có chứa một số chất rắn dạng tinh thể nghi vấn là ma túy.

Bản Kết luận giám định số 297/PC64 ngày 22/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận mẫu tinh thể gửi giám định có trọng lượng là 3,5741g có Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 67, Nghị định 82 ngày 19/7/2013 của Chính phủ, có hàm lượng 76,03%. Trọng lượng Methamphetamine trong 3,5741g mẫu là 2,7174g.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo thu giữ:

- 01 vỏ thuốc lá hiệu Jet, 01 bịch nylon miệng kéo dính bên trong có chứa một số chất rắn dạng tinh thể nghi vấn là ma túy. Sau khi giám định, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương hoàn lại mẫu vật sau giám định được niêm phong, trọng lượng 3,2669 gam.

- 01 điện thoại di động hiệu NeoSon màu xanh, đen

- 01 xe mô tô biển số 69K3 - 1234.

Cáo trạng số 49/QĐ - KSĐT ngày 17/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương đã truy tố Nguyễn An K ra trước Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương để xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (gọi tắt là BLHS 1999).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Nguyễn An K phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của BLHS 1999 xử phạt bị cáo Nguyễn An K từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Đồng thời đề nghị xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật sau giám định đã được Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương hoàn lại có trọng lượng 3,2669 gam và 01 (một) vỏ thuốc lá hiệu Jet không còn giá trị sử dụng; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) xe mô tô biển số 69K3 - 1234, nhãn hiệu Mio, số loại: Ultimo, số khung RLCM5678, số máy 5555. Trả lại cho Nguyễn An K 01 (một) điện thoại di động hiệu NeoSon màu xanh, đen.

Phần tranh luận, bị cáo không tranh luận gì về tội danh và hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo ăn năn hối lỗi và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Phú Giáo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Ngày 19/6/2017, bị cáo Nguyễn An K đã có hành vi vận chuyển trái phép 2,7174 gam chất ma túy Methamphetamine từ Thành phố Hồ Chí Minh về huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước và bị Công an huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương phát hiện bắt quả tang. Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Hành vi của bị cáo Nguyễn An K là nguy hiểm cho xã hội. Về nhận thức, bị cáo biết ma túy là chất gây nghiện thuộc danh mục quản lý của Nhà nước nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên bị cáo đã cố ý dịch chuyển bất hợp pháp chất ma túy từ nơi khác về để sử dụng. Trọng lượng Methamphetamine mà bị cáo vận chuyển là 2,7174 gam, đây là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 67 Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ về việc “Ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất ma túy”. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS 1999 đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo:

Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma túy và tiền chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng đến trật tự trị an trong khu vực. Đồng thời, tệ nạn ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến nhiều hành vi phạm tội khác và là nguyên nhân dẫn đến nhiều căn bệnh không có thuốc trị. Do đó, HĐXX xét thấy cần áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích, đồng thời nêu gương phòng ngừa chung cho xã hội.

+ Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án về tội “Cướp giật tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 năm tù theo Bản án số 76/2013/HSST ngày 19/9/2013. Bị cáo chấp hành án xong ngày 10/10/2015, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới nên hành vi của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự 1999.

+ Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên HĐXX xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS 1999.

Về phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp với hành vi, tính chất, tình tiết của vụ án nên HĐXX chấp nhận.

Đối với Nguyễn H đi cùng Nguyễn An K nhưng không biết K mua ma túy, chưa đủ yếu tố cầu thành tội phạm nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[4] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với mẫu vật sau giám định đã được Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương hoàn lại đối tượng giám định có trọng lượng 3,2669 gam là chất ma túy Nhà nước cấm sử dụng nên HĐXX quyết định tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 (một) vỏ thuốc lá hiệu Jet không còn giá trị sử dụng nên HĐXX tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 69K3-1234, nhãn hiệu Mio, số loại Mio Ultimo 4P83, số khung số khung RLCM5678, số máy 5555: Đây là xe của ông Lê Hữu T cho bà Lê Thu B, bà Ba bán xe cho ông Trịnh Xuân H2 nhưng chưa làm thủ tục sang tên cho ông H. Sau đó, ông H bán chiếc xe này cho Nguyễn An K. Ông T, bà B, ông H không có ý kiến gì nên đây là tài sản hợp pháp của K. Xét thấy chiếc xe mô tô biển số 69K3 - 1234 là phương tiện K sử dụng vào việc phạm tội nên HĐXX tịch thu sung quỹ Nhà nước.

+ Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu NeoSon màu xanh, đen của Nguyễn An K: Xét thấy chiếc điện thoại trên không liên quan đến việc phạm tội nên HĐXX tuyên trả lại cho bị cáo.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn An K phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009;

Xử phạt bị cáo Nguyễn An K 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/6/2017.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy Mẫu vật sau giám định đã được Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương hoàn lại đối tượng giám định có trọng lượng 3,2669 gam và 01 (một) vỏ thuốc lá hiệu Jet.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) xe mô tô biển số 69K3 - 1234, nhãn hiệu Mio, số khung RLCM5678, số máy 5555.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn An K 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu NeoSon màu xanh, đen.

(Thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/8/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí: Áp dụng các Điều 98, 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn An K phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

376
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2017/HSST ngày 07/09/2017 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:54/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về