Bản án 54/2017/HSST ngày 15/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 54/2017/HSST NGÀY 15/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15/9/2017, tại Hội trường UBND xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2017/HSST ngày 25 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân T, sinh năm 1988 tại tỉnh Quảng Ninh; trú tại: Thôn Th, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Xuân Th và bà Phạm Thị Ch (Tên gọi khác: Phạm Thị Th); có vợ và 02 con; tiền án: Không;

Tiền sự, có 01 tiền sự: Ngày 09/5/2017, Trưởng Công an huyện Tứ Kỳ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/8/2017 đến nay (hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương). Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương truy tố về hành vi phạm tội như sau: Hồi 18 giờ 00 phút ngày 01/8/2017, tại đường 391 (Trước cửa hàng điện thoại CQ) thuộc địa phận thôn Gi, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương lực lượng Cảnh sát điều tra, Công an huyện Tứ Kỳ bắt quả tang bị cáo Nguyễn Xuân T có hành vi ném từ lòng bàn tay trái xuống rìa đường, trước cửa hàng điện thoại CQ 01 túi nilon, kích thước (2,5x3,5)cm, bên trong có các hạt tinh thể màu trắng, bị cáo khai đó là ma túy tổng hợp (ma túy đá) bị cáo mua về để sử dụng, do gặp Công an nên bị cáo ném xuống đường.

Quá trình điều tra xác định: Bị cáo nghiện chất ma túy, khoảng 17 giờ ngày 01/8/2017 bị cáo đi từ nhà ở thôn Th, xã L, huyện K đến thôn L, xã T, huyện K gặp và mua của một người đàn ông tự khai tên Toàn (bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người này) số ma túy trên hết 300.000đ, khi bị cáo đi bộ quay về thì bị bắt.Kết luận giám định số 297/KLGĐ ngày 04/8/2017, phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất tinh thể màu trắng ghi thu của Nguyễn Xuân T, gửi đến giám định có trọng lượng là 1,186g (Một phẩy một trăm tám mươi sáu gam), là loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Tại Cáo trạng số 48/VKS-HS ngày 25/8/2017, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyên Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 của BLHS; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa XIV; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015. Xử phạt Nguyễn Xuân T từ 13 đến 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), tịch thu và tiêu huỷ 1,092g Methamphetamine do cơ quan giám định hoàn lại; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, công nhận quyết định truy tố và lời luận tội của VKSND huyện Tứ Kỳ là đúng và đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo ở mức hình phạt thấp nhất.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,

XÉT THẤY

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Chiều ngày 01/8/2017, bị cáo Nguyễn Xuân T có hành vi mua và cất giấu trái phép 1,186g (Một phẩy một trăm tám mươi sáu gam) chất ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng đã bị lực lượng Cảnh sát điều tra, Công an huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương bắt quả tang thu giữ vào hồi 18 giờ, ngày 01/8/2017 tại đường 391 (Trước cửa hàng điện thoại CQ) thuộc địa phận thôn Gi, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi mua và cất giấu chất ma tuý của bị cáo là vi phạm pháp luật, song với mục đích để sử dụng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, chất ma túy bị cáo cất giấu trái phép là Methamphetamine, có khối lượng 1,186g (Một phẩy một trăm tám mươi sáu gam) nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS. Như vậy, Quyết định truy tố của VKSND huyện Tứ Kỳ đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ.

Hành vi của bị cáo có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, chế độ quản lý đặc biệt đối với chất ma tuý của Nhà nước, bản thân bị cáo nghiện chất ma túy, ngày 09/5/2017 bị Trưởng Công an huyện Tứ Kỳ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo không lấy đó làm bài học để tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội nên HĐXX thấy cần thiết phải có mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội một thời gian thì mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo trở thành người tốt và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên, tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 của BLHS; theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa XIV về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015)… thì đây là quy định có lợi nên HĐXX sẽ áp dụng tinh thần của BLHS năm 2015 khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị bắt giữ, tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo có mẹ đẻ được tặng thưởng Huy chương kháng chiến nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của BLHS.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản gì có giá trị nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Khối lượng chất ma túy Methamphetamine bị cáo tàng trữ trái phép sau khi giám định còn lại 1,092 gam là vật cấm lưu hành nay tịch thu tiêu hủy; 01 thẻ nhớ cơ quan điều tra lưu giữ hình ảnh được trích xuất từ camera tại quán điện thoại CQ để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo sẽ được quản lý, lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

Về án phí: Bị cáo có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này, đối tượng bán ma túy cho bị cáo không xác định được tên, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của BLHS; Nghị quyết 41/2017/QH14 của Quốc hội khóa XIV; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 13 (Mười ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, ngày 01/8/2017.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 của BLHS; điểm a khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu huỷ: 1,092g (Một phẩy không trăm chín mươi hai gam) Methamphetamine do cơ quan giám định hoàn lại (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ ngày 28/8/2017)

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về…án phí và lệ phí Tòa án. Xử buộc bị cáo Nguyễn Xuân T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 15/9/2017./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2017/HSST ngày 15/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:54/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về