Bản án 54/2017/HSST ngày 31/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA –VŨNG TÀU

BẢN ÁN 54/2017/HSST NGÀY 31/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 7 năm 2017; tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 44/2017/HSST ngày 21 tháng 6 năm 2017 đối với bị cáo:

Trần Minh T, sinh năm: 1997 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; hộ khẩu thường trú và chỗ ở: ấp 3 xã L, thành phố R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 02/12; con ông Trần Minh D (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1972; bị cáo là con thứ hai trong gia đình có ba anh em.

Tiền án: Không; Tiền sự:

- Quyết định số 14/QĐ-TA ngày 23/03/2016 của Tòa án nhân dân thành phố R, áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Trần Minh T thời hạn 12 tháng.

- Quyết định xử phạt hành chính số 1495/QĐ-XPHC ngày 09/03/2017 của Công an xã L, thành phố R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt tạm giam ngày 24/3/2017 trong vụ án “Tàng trữ trái phép chất mam túy” do Cơ quan CSĐT Công an thành phố T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu khởi tố. Ngày 18/7/2017, Tòa án thành phố T xét xử theo bản án số 133/2017/HSST, tuyên phạt bị cáo T 18 tháng tù. (có mặt).

- Bị hại:  Ông Nguyễn Phúc H, sinh năm: 1979 (vắng mặt)

Địa chỉ: khu phố L, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Người làm chứng: Ông Phan Hữu P, sinh năm: 1974 (vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 16 ấp H, xã P, thành phố R, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 16/03/2017, Trần Minh T điều khiển xe đạp từ thành phố R đến huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với mục đích tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi ngang qua nhà của anh Nguyễn Phúc H ở khu phố L, thị trấn Đ, huyện Đ, T nhìn thấy nhà của anh H đóng cửa, không người trông coi nên T quyết định trộm cắp tài sản nhà anh H. T dừng xe và đi xung quanh khu vực nhà của anh H quan sát để tìm cách đột nhập vào nhà thì phát hiện ở góc chân cột nhà gần cửa ra vào có để 01 chìa khóa nên T đã lấy chìa khóa trên và mở được cửa vào trong nhà của anh H. Lúc này, T đi đến phòng khách lấy  01 máy cắt hiệu Makita, 01 máy mài hiệu Dewatl DW810, 01 máy khoan hiệu Crown Impact Drill và sau đó đi vào phòng ngủ lấy 01 máy tính bảng hiệu Masstel, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 3 - 8GB để ở trên giường ngủ rồi mang ra ngoài đường. Sau khi lấy được số tài sản trên, T sử dụng chiếc xe đạp của mình chở đến nhà của anh Phan Hữu P ở tổ 16 ấp H, xã P, thành phố R gửi giữ. Đến 13 giờ ngày 17/03/2017, T quay lại nhà của anh H để tiếp tục lấy cắp tài sản thì bị anh H phát hiện bắt giữ T. Tại cơ quan điều tra, T đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên của mình. (Bút lục số: 40 đến 46).

Vật chứng vụ án gồm:

- 01 máy tính bảng hiệu Masstel Tab 710; 01 máy khoan hiệu Crown Impact Drill CT10066; 01 máy mài hiệu Dewatl DW810; 01 máy cắt cầm tay hiệu Makita.

Đã thu hồi trao trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Phúc H.

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 3, dung lượng 8GB, không thu hồi được.

- 01 chiếc xe đạp hiệu Martin, màu trắng. Hiện đã chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Điền quản lý chờ xử lý. (Bút lục số: 26 đến 29).

Tại biên bản định giá và kết luận định giá tài sản ngày 23/03/2017 của Hội đồng định giá tài sản thuộc UBND huyện Đ kết luận:

- 01 (một) máy cắt cầm tay hiệu Makita có giá trị là 600.000đ.

- 01 (một) máy mài hiệu Dewatl DW810 có giá trị là 480.000đ.

- 01 (một) máy khoan hiệu Crown Impact Drill10066 có giá trị là 420.000đ.

- 01 (một) máy tính bảng hiệu Masstel Tab 710 có giá trị là 1.260.000đ.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 3, dung lượng 8GB có giá trị là 300.000đ.

+ Tổng tài sản đã nêu trên đã định là 3.060.000đ. (Bút lục số: 31 đến 33).

Về trách nhiệm dân sự: Anh H đã nhận lại tài sản. Riêng chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 3, dung lượng 8GB không thu hồi được nhưng anh H không yêu cầu bồi thường.

Đối với anh Phan Hữu P do không biết những tài sản mà Trần Minh T giử tại nhà của anh P là do phạm tội mà có nên không có cơ sở xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 49/QĐ-KSĐT ngày 19/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền đã truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố sau khi tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Minh T từ 09 đến 12 tháng tù. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc xe đạp hiệu Martin, màu trắng của bị cáo dùng vào việc phạm tội.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố; không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Long Điền, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của của bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 16/03/2017, tại nhà số 70E khu phố  L, thị trấn Đ, huyện Đ, Trần Minh T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Nguyễn Phúc H 01 máy cắt cầm tay hiệu Makita; 01 máy mài hiệu Dewatl DW810; 01 máy khoan hiệu Crown Impact Drill10066; 01 máy tính bảng hiệu Masstel Tab 710; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 3, dung lượng 8GB, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt có giá trị là 3.060.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Trần Minh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

[3] Xét thấy, bị cáo tuổi đời còn trẻ có sức khỏe nhưng không chịu làm ăn lương thiện, lười lao động, lợi dụng sự sơ hở của người bị hại thực hiện việc phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có 02 tiền sự, từng bị xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó là bài học thay đổi bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra, xét xử vụ án, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn về mặt tài sản nên xem xét áp dụng điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự:  Không.

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Đối với 01 máy tính bảng hiệu Masstel Tab 710; 01 máy khoan hiệu Crown Impact Drill CT10066; 01 máy mài hiệu Dewatl DW810; 01 máy cắt cầm tay hiệu Makita, đã thu hồi trao trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Phúc H. 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 3, dung lượng 8GB, không thu hồi được, ông Nguyễn Phúc H không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết. Đối với 01 chiếc xe đạp hiệu Martin, màu trắng của bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

 Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự, xử phạt:

Trần Minh T 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng  Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc xe đạp hiệu Martin, màu trắng. (Theo biên bản giao nhận vật chứng số 37/BB-THA ngày 19/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Điền).

Về án phí: Áp  dụng  Điều  99 Bộ  luật tố tụng  hình  sự;  Nghị  quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Minh T phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (31/7/2017) bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2017/HSST ngày 31/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:54/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về