Bản án 54/2018/HS-ST ngày 18/09/2018 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 54/2018/HS-ST NGÀY 18/09/2018 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Trong ngày 18 tháng 9 năm 2018 tại Hội trường Ủy ban nhân dân phường NS, thành phố CĐ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 50/2018/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Lý Bích M, sinh năm 1982, tại thành phố BL - tỉnh BL; nơi cư trú: số 3/42, hẻm 5, khóm 6, phường 5, thành phố BL, tỉnh BL; nghề nghiệp: nội trợ; Trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Minh S và bà Trần Thị Bích Th, chồng tên Lê Viết T; con tên Lê Bích Ng.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/4/2018 đến ngày 02/5/2018 chuyển tạmgiam cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Duy Q, sinh năm 1984; nơi cư trú: số 38/188A đường Lộc Ninh, khóm 9, phường 1, thành phố BL, tỉnh BL;

- Ông Nguyễn Duy H, sinh năm 1986; nơi cư trú: 102D1, khóm 10, phường 1, thành phố BL, tỉnh BL;

- Ông Võ Bình An, sinh năm 1979; nơi cư trú: 01/53, Hương lộ 6, khóm10, phường 1, thành phố BL, tỉnh BL.

Người làm chứng : Ông Võ Văn Ch, sinh năm 1972; nơi cứ trú: tổ 13,khóm Mỹ Hòa, phường VM, thành phố CĐ, tỉnh AG.

Bị cáo có mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Q (Nuôi), ông H, ông A vắng mặt. Trong đó, ông Q và ông H có đơn xin xét xử vắng mặt; người làm chứng ông Ch vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lý Bích M bị Viện Kiểm sát Nh dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 22/4/2018, lực lượng chống buôn lậu, tuần tra tuyến Quốc lộ 91 (khu vực khóm MT, phường VM, thành phố CĐ), phát hiện, bắt quả tang M có hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu. M khai mua của Trần Thế Nh (CE), vận chuyển về BL, để bán lại, thu lợi.

Vật chứng thu giữ: Thuốc lá điếu nhập lậu 8.000 bao các loại gồm: 2.000 bao nhãn hiệu JET; 3.000 bao nhãn hiệu HERO; 3.000 bao nhãn hiệu SCOTT; 01 (một) xe ô tô loại 04 (bốn) chỗ, hiệu TOYOTA VIOS, màu nâu vàng, biển số 94A-027.56 và giấy chứng nhận đăng ký xe (bản photo sao y); 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số 4666724 của xe nhãn hiệu TOYOTA VIOS; 01 (một) giấy phép lái xe hạng C, số 951174000236, cấp ngày 21/01/2017, tên Lý Bích M; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 385102630, cấp cấp ngày 13/4/2016, tên Lý Bích M; 01 (một) thẻ ATM số thẻ 4221514036896632 của Ngân hàng Sacombank, tên Lý Bích M; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime, có 02 sim số thuê bao 0948414530 và 0919635002; 01 (một) điện thoạidi động hiệu Samsung, model GT.E00y, có 01 sim mang số thuê bao:01684513745; 06 (sáu) tờ giấy, ghi số và chữ, có chữ ký của Lý Bích M; Tiền mặt: 11.058.000 (mười một triệu, không trăm, năm mươi tám triệu) đồng; 12 (mười hai) thùng giấy hiệu Ram; 07 (bảy) bọc nylon màu đen.

Ngày 02-5-2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh AG Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và Lệnh tạm giam đối với M.

Ngày 11/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh An Giang bàn giao bị can M cùng đồ vật, tài liệu thu giữ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Châu Đốc tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan Điều tra, bị cáo M khai nhận: Toàn bộ số thuốc lá điếu nhập lậu là của bị cáo mua của CE, địa điểm giao nhận là Tuyết đường Hoàng Đạo Cật, thuộc khóm VT, phường NS, thành phố CĐ. Mua thuốc lá xong vận chuyển về ST bán lại kiếm lời. Giá mua cụ thể Jet mua 160.000 đồng/cây (01 cây tương đương 10 bao) bán lại 175.000 đồng/cây; Hero mua 130.000 đồng/cây bán lại 145.000 đồng/cây; Scott mua 113.000 đồng/cây bán lại 130.000 đồng/cây. M đã nhận thuốc mua từ CE để lên xe và đã trả tiền xong cho CE với số tiền 104.900.000 đồng. Bên cạnh đó M còn khai nhận trước lần bị bắt quả tang ngày22/4/2018 M đã thực hiện trót lọt 06 lần mua bán thuốc lá nhập lậu mỗi lần khoảng 2.000 bao, mang về BL bán thu lợi 9.000.000 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai như nội dung vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 63/CT-VKS-CĐ ngày 17 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát Nh dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Lý Bích M về tội “Buôn bán hàng cấm” được quy định tại khoản 3 Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa,

Bị cáo M thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” nên Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của Lý Bích M là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, gây tác hại xấu về nhiều mặt cho kinh tế.

Đứng trước phiên tòa hôm nay bị cáo là người đã trưởng thành, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi Buôn bán hàng cấm là vi phạm pháp luật, nhưng vì hám lợi bị cáo đã bất chấp pháp luật, thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Vì vậy, cần phải cách ly khỏi xã hội một thời gian, để nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự thú; tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án; có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 3 Điều 190, điểm r, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 05 đến 06 năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm”.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không nghề nghiệp ổn định, đang nuôi con nhỏ nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: áp dụng các Điều 46, 47 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 BLTTHS năm 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy Đối với số thuốc lá điếu thu giữ trong vụ án;

- Tịch thu, tiêu hủy 06 tờ giấy, ghi số và chữ, có chữ ký của Lý Bích M và12 thùng giấy hiệu Ram; 07 bọc nylon màu đen không còn giá trị sử dụng;

- Tịch thu, sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7Prime, có 02 sim số thuê bao 0948414530 và 0919635002;

- Đối với 01 xe ôtô, loại 04 chỗ, hiệu TOYOTA VIOS, màu nâu vàng, biển số 94A - 027.56 và giấy chứng nhận đăng ký xe (bản pho to sao y), 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số 4666724 của xe nhãn hiệu Toyota Vios người liên quan ông Nguyễn Duy Hđã nhận lại nên không đề cập xem xét.

- Giao trả 01 giấy phép lái xe hạng C, số 951174000236, cấp ngày 21/01/2017, tên Lý Bích M; 01 giấy chứng minh Nh dân số 385102630, cấp ngày13/4/2016, tên Lý Bích M; 01 Thẻ ATM số 4221514036896632 của Ngân hàng Sacombank, tên Lý Bích M (chưa kiểm tra tài khoản); 01 điện thoại di động hiệu Samsung, model GT.E00y, có 01 sim mang số thuê bao: 01684513745 cho bị cáo;

- Trả lại cho bị cáo số tiền 11.058.000 đồng đã thu giữ, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về biện pháp tư pháp:

Buộc bị cáo giao nộp 9.000.000 đồng thu nhập bất chính do phạm tội mà có để sung công quỹ nhà nước.

Đối với Q, Hcho M thuê xe tự lái, không biết M sử dụng phạm tội nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với Nh (CE, không rõ địa chỉ cụ thể), tiếp tục làm rõ xử lý sau.

Căn cứ các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

 [2] Về sự vắng mặt của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Tuy nhiên, họ đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quyết định vẫn tiến hành xét xử.

Về nội dung:

 [3] Hành vi phạm tội:

Bị cáo M khai nhận, vì lợi nhuận nên mua thuốc lá điếu ngoại nhập lậu bán lại kiếm lời, tối ngày 21- 4-2018 bị cáo điện thoại cho ông Q (nhà ở phường 3, thành phố BL) để thuê xe ô tô tự lái, lúc điện thoại thuê xe, bị cáo có nói với Q là đi du lịch tại Châu Đốc, An Giang. Sau khi nhận xe, bị cáo điều khiển xe chạy từ thành phố BL đi Châu Đốc, An Giang, đến địa phận huyện Cờ Đỏ, thành phố CT, bị cáo điện thoại cho CE (số điện thoại: 0943636355) để đặt mua thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng 8.000 (tám nghìn) bao. Khi đến Châu Đốc, bị cáo thuê phòng trọ Vạn Thành để nghỉ ngơi và chờ CE điện thoại để nhận thuốc lá ngoại.

Khoảng 20 giờ cùng ngày, CE điện thoại và kêu bị cáo lái xe vào hướng Chùa Bà, thành phố CĐ, đến ngã tư đèn đỏ thì quẹo phải vào có CE chờ ở đó, khi đến bị cáo và CE cùng mang thuốc lá cất giấu vào xe. Nhận thuốc lá xong, bị cáo thanh toán bằng tiền mặt là 104.900.000 (một trăm lẻ bốn triệu, chín trăm nghìn) đồng. Bị cáo điều khiển xe về BL, khi đến Quốc lộc 91, thuộc khu vực khóm MT, phường VM, thì bị lực lượng chức năng kiểm tra xe, phát hiện trên xe vận chuyển thuốc lá ngoại nhập lậu và lập biên bản phạm tội quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác gồm: Bản ảnh hiện trường ngày 22-4-2018, biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 22-4-2018; phù hợp với lời khai của người chứng kiến ông Võ Văn Ch về việc cóchứng kiến Lực lượng Công an bắt giữ và kiểm tra phương tiện xe ô tô 4 chổ hiệu Toyota Vios do M điều khiển có vận chuyển thuốc lá ngoại nhập lậu.

Như vậy, có đủ cơ sở xác định, bị cáo đã có hành vi mua 8.000 (tám nghìn) bao thuốc lá điếu ngoại nhập lậu, trên đường đi bán kiếm lời thì bị bắt quả tang.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi buôn bán thuốc lá điều nhập lậu là xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất kinh doanh những mặt hàng cấm cụ thể là thuốc lá điếu nhập lậu do nước ngoài sản xuất nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện thông qua việc lựa chọn nơi vắng người mua thuốc; để thuốc lá vào bao để tránh bị phát hiện và sự thừa nhận của bị cáo. Số lượng thuốc lá bị cáo vận chuyển để bán, bị thu giữ là 8.000 bao thuộc quy định hàng phạm pháp có số lượng lớn. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 190 Bộ Luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra trước phiên tòa và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát Nh dân thành phố Châu Đốc là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật. Thuốc điếu nhập lậu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất trong nước, thiệt hại về kinh tế ngoại tệ ra nước ngoài nên cần phải xử lý.

Bị cáo là người đang ở tuổi lao động. Đáng lẽ, phải tìm cho mình một công việc phù hợp để nuôi sống bản thân, gia đình nhưng vì hám lợi, bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán hàng cấm, nên phải xử lý đối với hành vi của bị cáo.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng, trước lần bị bắt quả tang, bị cáo còn thực hiện hành vi mua thuốc lá để bán lại kiếm lời 06 lần mỗi lần khoảng 2.000 bao. Do đó, cần có hình phạt nghiêm, để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

 [4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự thú; tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự có cha ruột là ông Lý Minh S là bệnh binh diện 53, theo Quyết định của Thủ trưởng ban chỉ huy trung đoàn I55/F4-QK9, số quyết định 003/XN53 ngày 10-01-1987. Cho nên, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (nên được xem xét và áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự khi lượng hình, quyết định hình phạt đối với bị cáo như quan điểm đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát).

 [5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, sống phụ thuộc vào gia đình, nuôi con còn nhỏ do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Số thuốc lá điếu nhập lậu 8.000 bao (gồm: 2.000 bao hiệu Jet, 3.000 bao hiệu Scott, 3.000 bao Hero) bị thu giữ là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe ô tô hiệu TOYOTA VIOS, biển số 94A-027.56 cùng 01 giấy chứng nhận đăng ký xe, 01 giấy chứng nhận kiểm định; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm Cơ quan điều tra đã giao trả cho ông Nguyễn Duy Hnên không đề cập xem xét giải quyết;

- 01 giấy phép lái xe hạng C, số 951174000236, cấp ngày 21-01-2017; 01 giấy Chứng minh Nh dân số 385102630, cấp ngày 13-4-2016; 01 thẻ ATM số 4221514036896632 của Ngân hàng Sacombank, không liên quan đến tội phạmnên giao trả lại cho bị cáo.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Prime, có sim số thuê bao 0948414530 và sim số thuê bao 0919635002; bị cáo sử dụng vào việc liên lạc mua bán thuốc lá nên là phương tiện phạm tội; Vì vậy, tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung, model GT.E00y, có 01 sim mang số thuê bao: 01684513745 thu giữ từ bị cáo M, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng không có căn cứ xác định điện thoại này liên quan đến việc phạm tội, nên giao trả lại cho bị cáo M.

- Đối với số tiền 11.058.000 đồng của bị cáo M bị Cơ quan điều tra thu giữ là tiền bị cáo đem theo trong người tiêu xài cá Nh, không có cơ sở chứng minh là tiền do phạm tội nên giao trả lại cho bị cáo. Tuy nhiên cần tạm giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 06 (sáu) tờ giấy có ghi số và chữ, có chữ, 12 (mười hai) thùng giấy Coton hiệu Ram, 07 (bảy) bọc nilon màu đen là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Buộc bị cáo giao nộp số tiền thu lợi bất chính 9.000.000 đồng sung vào công quỹ nhà nước.

 [7] Về vấn đề khác:

- Ông Nguyễn Duy H đã được giao trả xe Toyota Vios biển số 94A-027.56 và các giấy tờ xe có liên quan, ngoài ra không có yêu cầu bồi thường dân sự, do đó Tòa án không giải quyết.

- Trần Thế Nh (CE, không rõ địa chỉ cụ thể), tiếp tục làm rõ xử lý sau

 [8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, khoản 3 Điều 190; điểm s, t khoản 1, 2 điều 51 Điều 54 Bộ Luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Lý Bích M phạm tội “Buôn bán hàng cấm”;

Xử phạt

Bị cáo Lý Bích M 05 (năm) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính kể từ ngày tạm giữ 23/4/2018 (hai mươi ba tháng tư năm hai nghìn không trăm mười tám).

Căn cứ vào Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy số thuốc lá điếu nhập lậu 8.000 bao (gồm: 2.000 bao hiệu Jet, 3.000 bao hiệu Scott, 3.000 bao Hero).

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Prime, Imei: 355228/08/222135/7; số seri: R584C1EVDQW, bên trong chứa 02 sim mang số thuê bao 0948.414.530 và 0919.635.002 (đã qua sử dụng chưa kiểm định chất lượng bên trong).

- Tịch thu tiêu hủy 06 (sáu) tờ giấy có ghi số và chữ, có chữ ký của Lý Bích M, 12 (mười hai) thùng giấy Coton hiệu Ram, 07 (bảy) bọc nilon màu đen.

- Giao trả cho bị cáo 01 giấy phép lái xe hạng C, số 951174000236, cấp ngày 21-01-2017 tên Lý Bích M; 01 giấy Chứng minh Nh dân số 385102630, cấp ngày 13-4-2016 tên Lý Bích M; 01 thẻ ATM số 4221514036896632 của Ngân hàng Sacombank, tên Lý Bích M.

- Giao trả cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Samsung, model GT.E00y, số Imei: 356902/08/227444/7, có 01 sim mang số thuê bao:0168.4513745 (đã qua sử dụng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/9/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Châu Đốc với Thủ kho vật chứng thuộc Cơ quancảnh sát điều tra Công an thành phố Châu Đốc).

- Giao trả số tiền 11.058.000 (mười một triệu, không trăm năm mươi tám nghìn) đồng cho bị cáo. Nhưng tiếp tục tạm giữ số tiền 11.058.000 (mười một triệu, không trăm năm mươi tám nghìn) đồng của bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/8/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Châu Đốc với Chi cục Thi hành án dân sự Châu Đốc).

- Buộc bị cáo giao nộp số tiền thu lợi bất chính 9.000.000 đồng sung vào công quỹ nhà nước

Áp dụng Điều 135, Điều 136 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Lý Bích M phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án Nh dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

373
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2018/HS-ST ngày 18/09/2018 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:54/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Châu Đốc - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về