Bản án 54/2019/HS-ST ngày 05/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - BẮC GIANG

BẢN ÁN 54/2019/HS-ST NGÀY 05/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 05 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 53/2019/HSST, ngày 11 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 182/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Nguyễn Văn V, sinh ngày 03/01/1982 - Tên gọi khác: Không - Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn C, xã V, huyện T, tỉnh B.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

- Nghề nghiệp: Làm ruộng; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: 4/12;

- Họ và tên cha: Nguyễn Văn Va- sinh năm 1948 (Đã chết).

- Họ và tên mẹ: Dương Thị A, sinh năm 1948

- Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1989

- Con: Bị cáo có 02 con (con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012);

- Gia đình bị cáo có 05 chị em, bị cáo là con thứ 5.

- Tiền án, tiền sự: Chưa.

- Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Bị hại:

- Ông Dương Văn B, sinh năm 1955(Có mặt tại phiên toà)

Trú tại thôn C, xã V, huyện T, tỉnh B.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Dương Văn B:

- Chị Nguyễn Thị Hòa - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B(Có mặt tại phiên toà).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quA:

- Chị Dương Thị N, sinh năm 1983(Có mặt tại phiên toà)

Trú tại: thôn Tân A, xã V, huyện T, tỉnh B.

* Người làm chứng :

- Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1999(Vắng mặt tại phiên toà)

Trú tại: thôn T, xã T, huyện H, tỉnh B.

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1978 (Vắng mặt tại phiên toà)

Trú tại: thôn C, xã V, huyện T, tỉnh B.

- Bà Dương Thị A, sinh năm 1948(Vắng mặt tại phiên toà)

Trú tại: thôn C, xã V, huyện T, tỉnh B.

- Bà Vũ Thị Tuyến (Vắng mặt tại phiên toà)

Trú tại: thôn C, xã V, huyện T, tỉnh B.

- Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1967 (Vắng mặt tại phiên toà)

Công tác tại: Công An xã V, huyện T, tỉnh B.

- Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1984(Vắng mặt tại phiên toà)

Trú tại: thôn C, xã V, huyện T, tỉnh B.

- Chị Nguyễn Thị Hệ, sinh năm 1983(Vắng mặt tại phiên toà)

Trú tại: thôn C, xã V, huyện T, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Buổi trưa ngày 01/5/2019, chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1999, trú tại: thôn T, xã T, huyện H, tỉnh B đến nhà bà nội là Dương Thị A, sinh năm 1948, trú tại thôn C, xã V, huyện T, tỉnh B thấy bố là Nguyễn Văn T, sinh năm 1978 và chú Nguyễn Văn V, sinh năm 1982 đều trú tại thôn C, xã V, huyện T, tỉnh B đang cùng nhau sử dụng loại B nhựa giống dụng cụ dùng ma túy "Ngựa" nên đã sử dụng số điện thoại 0354.195.462 của chị N gọi cho ông Dương Văn B, sinh năm 1955, trú tại thôn C, xã V, huyện T, tỉnh B (là Công An viên thôn C, xã V) với nội dung "Bác lên ngay nhà bà A cháu nhờ một việc", ông B trả lời: "Việc gì, có quan trọng không" thì N bảo "Bác lên ngày nhé, quan trọng lắm"; sau đó ông B nhận tin nhắn của N với nội dung: "Trên này đang có người hút ngựa", "Bác lên luôn" và "Bác lên luôn giúp cháu". Nhận được tin nhắn của N, ông B lập tức gọi điện thoại cho đồng chí Nguyễn Đức T- Trưởng Công An xã V báo cáo sự việc trên và được đồng chí T chỉ đạo "Lên ngay trên đó để nắm tình hình, xong báo cáo lại", đồng thời ông B báo với bà Vũ Thị Tuyến là Trưởng thôn thôn C về nội dung trên và bảo bà Tuyến đi cùng lên nhà bà Dương Thị A thì bà Tuyến bảo "Tôi đang bận nhiều việc lắm, chú cứ lên đi xong về ngay nhé thôn đang nhiều việc". Lúc này, ông B điều khiển xe mô tô đến sân nhà bà Dương Thị A, chị N đứng ở hiên nhà nói: "Bác ơi, bác lên giúp cháu với, cho chúng nó đi hết đi". Anh T thấy ông B đến nên ra mời ông B vào trong nhà ngồi uống nước còn V thấy ông B đến liền nói "Ông lên đây làm gì, có việc gì?", ông B trả lời: "Có người bảo tôi lên đây giải quyết công việc", V trả lời "Nhà cháu không có việc gì cả ông về đi, cút". Ông B và V có lời qua tiếng lại, V lấy con dao phớ dài khoảng 40 cm, bản rộng khoảng 4cm, mũi dao vát nhọn ở trong buồng thì ông B chạy ra ngoài sân, V đuổi theo đến bờ tường hoa gần cổng thì V đuổi kịp; V dùng tay trái túm cổ phía sau gáy ông B, tay phải cầm dao phớ giơ mũi dao hướng về phía ông B đe dọa; Ông B sợ V đâm nên nói "thôi mày đừng làm thế" nhưng V vẫn T tục túm cổ ông B, hai bên giằng co xô đẩy nhau, ông B sợ bị V đâm nên đã dùng tay phải túm cổ tay phải cầm dao phớ của V, tay trái túm vào phần lưỡi dao phớ, V và ông B T tục giằng co, xô đẩy nhau dẫn đến phần lưỡi dao phớ của V cắt vào gan bàn tay trái và 04 ngón bàn tay trái của ông B. Sau đó anh T chạy đến can giữ V lại và ông B buông tay và chạy ra ngoài sơ cứu vết thương rồi đi đến Trung tâm y tế huyện H cấp cứu. V sau khi gây thương tích cho ông B thấy dao bị dính máu đã mang đến cánh đồng thuộc xã Hoàng ThAnh, huyện H vứt bỏ.

Ngày 04/6/2019, ông Dương Văn B có đơn trình báo gửi đến Công An huyện T yêu cầu xử lý Nguyễn Văn V về hành vi gây thương tích cho ông B.

Tại giấy ra viện số 009070 ngày 16/5/2019 Trung tâm y tế huyện H xác định Dương Văn B có các thương tích sau: Vết thương đứt gân ngón 3,4,5 bàn tay trái.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 8870/19/TgT ngày 28/5/2019 của Trung tâm pháp y Bệnh V đa khoa tỉnh B xác định thương tích của ông B như sau:

+ Thương tích vết thương gan bàn tay trái

+ Khám thần kinh, vận động: Vận động ảnh hưởng đến đông tác gấp duỗi ngón 3, 4, 5 bàn tay trái mức độ nhiều: 5%

+Thương tích vét thương đốt 1 ngón II và gan bàn tay trái: 4%

+ Thương tích đốt 1 ngón III bàn tay trái: 1%

+ Thương tích vết thương ngón IV bàn tay trái dài 2 cm: 1%

+ Thương tích vết thương ngón IV bàn tay trái dài 1 cm: 1%

+ Thương tích vết thương ngón V bàn tay trái: 1%

- Kết luận : Căn cứ Bảng tỉ lệ tổn thương cơ thể bA hành kèm theo Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 12% (Mười hai phần trăm).

- Kết luận khác: Cơ chế, đặc điểm công cụ gây thương tích, chiều hướng gây thương tích: Thương tích do vật sắc gây nên, không xác định được chiều hướng gây thương tích.

Ngày 13/8/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công An huyện T tiến hành thực nghiệm điều tra cho Nguyễn Văn V và ông Dương Văn B diễn lại hành vi. Kết quả: Theo lời khai của Nguyễn Văn V thì quá trình V và ông B giữ dao, giằng co dẫn đến con dao đã cắt vào lòng bàn tay ông B. Ông B khẳng định quá trình ông B giữ con dao phớ của V thì V có giằng dao và khi V giật dao lại đã làm lưỡi dao cắt vào lòng bàn tay của ông B dẫn đến ông B bị thương tích. Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất để giải quyết mâu thuẫn trên nhưng không có kết quả.

Quá trình điều tra chị Nguyễn Thị N đã cung cấp cho Cơ quan điều tra 04 tấm ảnh được chụp từ điện thoại di động của N ghi lại hình ảnh Nguyễn Văn V dùng dao phớ gây thương tích cho ông Dương Văn B. Kết quả làm việc V thừa nhận hình ảnh trên là hình ảnh ghi lại các tư thế, động tác quá trình V và ông B xô sát vào ngày 01/5/2019 tại nhà bà A.

Đối với còn dao phớ V dùng để gây thương tích cho ông B do V đã đem con dao đi vứt tại cánh đồng xã Hoàng ThAnh, huyện H. Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm vật chứng nhưng không có kết quả.

Về trách nhiệm dân sự và yêu cầu bồi thường: Người bị hại ông Dương Văn B yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn V phải bồi thường số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Đến nay, bị cáo Nguyễn Văn V chưa bồi thường thiệt hại cho người bị hại ông Dương Văn B.

Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Văn V khai nhận hành vi phạm tội. Bị cáo xác định cáo trạng truy tố bị cáo là không đúng.

Bản Cáo trạng số: 50/KSĐT, ngày 11/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Nguyễn Văn V về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 02 Điều 134 BLHS với tình tiết quy định tại điểm a điểm k khoản 01 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đồng thời đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng điểm đ khoản 02 Điều 134 BLHS với tình tiết quy định tại điểm a, điểm k khoản 01 Điều 134 của BLHS; Điều 38 của BLHS.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS, Điều 590 Bộ luật Dân sự:

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường cho bị hại Dương Văn B tiền chi phí hợp lý cho việc cứu chữa là 400.000đồng (Trong đó: Khoảng 15 giờ 00 phút chiều ngày 01/5/2019 ông B thuê xe ô tô 4 chỗ đi từ nhà ở thôn C, xã V, T, B đến Bệnh V đa khoa huyện H, tỉnh B (Khoảng 07 km) với giá 100.000đồng để chở lượt đi cấp cứu và về trong ngày do bị Anh V gây thương tích; Khoảng 14 giờ 30 phút chiều ngày 07/5/2019 ông B thuê xe ô tô 4 chỗ đi từ nhà ở thôn C, xã V, T, B đến Bệnh V đa khoa huyện H, tỉnh B (Khoảng 07 km) với giá 100.000đồng để kiểm tra vết thương và chở ông B về nhà; Khoảng 10 giờ 00 phút chiều ngày 16/5/2019 ông B thuê xe ô tô 4 chỗ đi từ nhà ở thôn C, xã V, T, B đến Bệnh V đa khoa huyện H, tỉnh B (Khoảng 07 km) với giá 100.000đồng để tháo cắt chỉ khâu vết thương và làm thủ tục ra viện; Khoảng 08 giờ 30 phút chiều ngày 22/5/2019 ông B thuê xe ô tô 4 chỗ đi từ nhà ở thôn C, xã V, T, B đến Bệnh V đa khoa huyện H, tỉnh B (Khoảng 07 km) với giá 100.000đồng để kiểm tra lại vết thương và bác sỹ hướng dẫn điều trị phục hồi chức năng).

Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường cho bị hại Dương Văn B tiền thuốc, viện phí có hóa đơn, chứng từ điều trị từ ngày 01/5/2019 và ra viện ngày 16/5/2019 chữa trị là 16 ngày và tiền thuốc sau điều trị với tổng số tiền là 892.360đồng (Trong đó: Ngày 16/5/2019 thanh toán 442.760.000đồng; ngày 20/5/2019 thanh toán 79.600đồng; ngày 05/6/2019 thanh toán 370.000đồng).

Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường tiền mất thu nhập thực tế cho bị hại Dương Văn B là: 1.865.600 đồng (Từ ngày 01/5/2019 đến ngày 16/5/2019 là 16 ngày x 116.600 đồng tiền thu nhập/ngày = 1.865.600 đồng).

Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường tiền bù đắp tổn thất về tinh thần của bị hại Dương Văn B do sức khoẻ bị xâm phạm là 10 lần mức lương cơ sở là: 14.900.000.000 đồng.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường cho chị Dương Thị N tiền mất thu nhập của người chăm sóc bị hại Dương Văn B, cụ thể: Bồi thường cho chị Dương Thị N 1.600.000 đồng (Trong đó, 100.000 đồng/ngày làm ruộng x 16 ngày chăm sóc ông B (Từ ngày 01/5/2019 đến ngày 16/5/2019) = 1.600.000 đồng).

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Dương Văn B phát biểu:

 Nhất trí với tội danh, điều khoản mà Viện kiểm sát truy tố, đề nghị xử phạt bị cáo V theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị HĐXX xem xét buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường cho bị hại Dương Văn B với tổng số tiền 21.500.000đồng là hợp lý.

Bị cáo Nguyễn Văn V nói lời sau cùng: Do nóng giận nên đề nghị HĐXX cho bị cáo sửa đổi, hoàn thiện bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công An huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Khoảng hơn 14 giờ ngày 01/5/2019 tại thôn C, xã V, huyện T, tỉnh B, Nguyễn Văn V đã thực hiện hành vi dùng 01 con dao phớ có chiều dài khoảng 40 cm, bản rộng khoảng 4cm gây thương tích làm đứt gân ngón 3, 4, 5 bàn tay trái của ông Dương Văn B là Công An viên đến giải quyết hiện tượng vi phạm pháp luật có liên quan đến bị cáo. Hậu quả làm ông Dương Văn B tổn thương 12% sức khỏe.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội nhưng căn cứ vào Bản kiểm điểm, bản tường trình, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, Đơn đề nghị khởi tố và lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quA, người làm chứng, phù hợp với diễn biến khách quA của hành vi bị cáo V gây thương tích cho bị hại B, phù hợp với Biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường, Bản ảnh hiện trường, giấy chứng nhận thương tích, phù hợp hình ảnh Nguyễn Văn V dùng dao phớ gây thương tích cho ông Dương Văn B do chị Nguyễn Thị N đã cung cấp cho Cơ quan điều tra. Tại Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 8870/19/TgT ngày 28/5/2019 của Trung tâm pháp y - Bệnh V đa khoa tỉnh B, kết luận đối với ông Dương Văn B: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 12%; Thương tích do vật sắc gây nên. Thương tích của ông B phù hợp với hành vi gây thương tích của bị cáo Nguyễn Văn V và hung khí nguy hiểm, phù hợp lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Tại điểm đ khoản 02 Điều 134 BLHS quy định: “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm: đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của ông Dương Văn B hiện tại là 12% nhưng hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm a: “Dùng hung khí nguy hiểm ” và điểm k : “Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” của khoản 1, Điều 134 BLHS. Nên có đủ căn cứ để kết luận: Bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội: "Cố ý gây thương tích”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 02 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị A xã hội. Do vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự nhằm đảm bảo cho việc giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

[4] Xét động cơ, mục đích, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thấy: Bị cáo phạm tội mang tính bột phát, không có dự mưu trước để phạm tội. Do muốn đuổi ông B vì giải quyết công việc liên quan đến bị cáo, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi gây thương tích cho bị hại B. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng. Với hành vi của bị cáo như vậy cần có mức xử phạt tương xứng với hành vi phạm tội, tính chất mức độ của bị cáo. Cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù với thời hạn nhất định để bị cáo có điều kiện tu dưỡng rèn luyện bản thân làm người có ích cho gia đình và xã hội như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở.

[5] Xét về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:

Bị cáo chưa có tiền án, chưa có tiền sự.

Xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: không có.

Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo thành khẩn khai báo. Tại phiên tòa bị cáo không khai nhận hành vi phạm tội của bản thân, không ăn năn hối cải. Nên không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 01, khoản 2 Điều 48 BLHS năm 2015, Điều 590 BLDS; mục 1, phần II, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TADTC về bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm, chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường của bị hại Dương Văn B, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Dương Thị N, cần buộc bị cáo Nguyễn Văn V phải bồi thường cho ông Dương Văn B, chị Dương Thị N tổng số tiền 19.657.960đồng là hợp lý, cụ thể:

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường cho bị hại Dương Văn B tiền chi phí hợp lý cho việc cứu chữa là 400.000đồng (Trong đó: Khoảng 15 giờ 00 phút chiều ngày 01/5/2019 ông B thuê xe ô tô 4 chỗ đi từ nhà ở thôn C, xã V, T, B đến Bệnh V đa khoa huyện H, tỉnh B (Khoảng 07 km) với giá 100.000đồng để chở lượt đi cấp cứu và về trong ngày do bị cáo V gây thương tích; Khoảng 14 giờ 30 phút chiều ngày 07/5/2019 ông B thuê xe ô tô 4 chỗ đi từ nhà ở thôn C, xã V, T, B đến Bệnh V đa khoa huyện H, tỉnh B (Khoảng 07 km) với giá 100.000đồng để kiểm tra việnết thương và chở ông B về nhà; Khoảng 10 giờ 00 phút chiều ngày 16/5/2019 ông B thuê xe ô tô 4 chỗ đi từ nhà ở thôn C, xã V, T, B đến Bệnh V đa khoa huyện H, tỉnh B (Khoảng 07 km) với giá 100.000đồng để tháo cắt chỉ khâu vết thương và làm thủ tục ra viện; Khoảng 08 giờ 30 phút chiều ngày 22/5/2019 ông B thuê xe ô tô 4 chỗ đi từ nhà ở thôn C, xã V, T, B đến Bệnh V đa khoa huyện H, tỉnh B (Khoảng 07 km) với giá 100.000đồng để kiểm tra lại vết thương và bác sỹ hướng dẫn điều trị phục hồi chức năng).

Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường cho bị hại Dương Văn B tiền thuốc, viện phí có hóa đơn, chứng từ điều trị từ ngày 01/5/2019 và ra viện ngày 16/5/2019 chữa trị là 16 ngày và tiền thuốc sau điều trị với tổng số tiền là 892.360đồng (Trong đó: Ngày 16/5/2019 thanh toán 442.760.000đồng; ngày 20/5/2019 thanh toán 79.600đồng; ngày 05/6/2019 thanh toán 370.000đồng).

Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường tiền mất thu nhập thực tế cho bị hại Dương Văn B là: 1.865.600 đồng (Từ ngày 01/5/2019 đến ngày 16/5/2019 là 16 ngày x 116.600 đồng tiền thu nhập/ngày (Theo biên bản xác minh thu nhập là 3.500.000đồng/tháng) = 1.865.600 đồng).

Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường tiền bù đắp tổn thất về tinh thần của bị hại Dương Văn B do sức khoẻ bị xâm phạm là 10 lần mức lương cơ sở là: 14.900.000.000 đồng.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường cho chị Dương Thị N tiền mất thu nhập của người chăm sóc bị hại Dương Văn B, cụ thể: Bồi thường cho chị Dương Thị N 1.600.000 đồng (Trong đó, 100.000 đồng/ngày làm ruộng (Theo biên bản xác minh thu nhập là 3.000.000đồng/tháng) x 16 ngày chăm sóc ông B (Từ ngày 01/5/2019 đến ngày 16/5/2019) = 1.600.000 đồng).

Ngoài ra, ông B, chị N không yêu cầu bồi thường gì khác nên không đặt ra xem xét.

Đối với còn dao phớ V dùng để gây thương tích cho ông B do V đã đem con dao đi vứt tại cánh đồng xã Hoàng ThAnh, huyện H. Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm vật chứng nhưng không có kết quả để xử lý.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Áp dụng điểm đ khoản 02 Điều 134; Điều 38 của BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn V 03 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 01, khoản 2 Điều 48 BLHS năm 2015, Điều 590 BLDS; mục 1, phần II, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TADTC về bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm, chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường của bị hại Dương Văn B, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Dương Thị N, cần buộc bị cáo Nguyễn Văn V phải bồi thường cho ông Dương Văn B, chị Dương Thị N tổng số tiền 19.657.960đồng là hợp lý, cụ thể:

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường cho bị hại Dương Văn B tiền chi phí hợp lý cho việc cứu chữa là 400.000đồng.

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường cho bị hại Dương Văn B tiền thuốc, viện phí và tiền thuốc sau điều trị với tổng số tiền là 892.360đồng.

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường tiền mất thu nhập thực tế cho bị hại Dương Văn B là: 1.865.600 đồng.

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường tiền bù đắp tổn thất về tinh thần của bị hại Dương Văn B do sức khoẻ bị xâm phạm là 10 lần mức lương cơ sở là: 14.900.000.000 đồng.

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn V bồi thường cho chị Dương Thị N tiền mất thu nhập của người chăm sóc bị hại Dương Văn B, cụ thể: Bồi thường cho chị Dương Thị N 1.600.000 đồng.

4. Áp dụng khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy bA thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu 200.000 đồng án phí HSST và 982.898 đồng án phí DSST.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Lụât Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

543
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2019/HS-ST ngày 05/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:54/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về