Bản án 55/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ RIỀNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 55/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 468/2018/HNGĐ-ST ngày 17-10-2018 về việc: “Tranh chấp Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 14-112018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm: 1988 (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Hồ Quang S, sinh năm: 1988 (Vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn c, xã P, huyện R, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Ngày 02/3/2009, chị Nguyễn Thị T và anh Hồ Quang S tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện R. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng sau đó xảy ra nhiều mâu thuẫn, do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau, anh S không quan tâm chăm lo cho gia đình. Do vậy, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân, không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

Nay, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hồ Quang S.

Về việc nuôi con: Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản và nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo đơn xin xét xử vắng mặt ngày 09/11/2018, anh Hồ Quang S trình bày: Do công việc bận rộn, không sắp xếp được thời gian nên anh xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án; mặt khác việc ly hôn, nuôi con, anh và chị T tự thương lượng được. Do đó, anh không có yêu cầu gì trong vụ án này.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Riềng:

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc chấp hành các quy định pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Về hướng giải quyết vụ án: Chị Nguyễn Thị T và anh Hồ Quang S tự nguyện sống chung, năm 2009 hai bên làm thủ tục đăng ký kết hôn tại chính quyền địa phương theo quy định, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị T kiên quyết xin được ly hôn, anh S không có ý kiến, yêu cầu gì. Tuy nhiên, theo lời trình bày của nguyên đơn hiện anh chị đã sống ly thân; mặt khác, theo biên bản xác minh tại chính quyền địa phương cũng thể hiện cuộc sống hôn nhân của anh chị không hạnh phúc. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị T là phù hợp.

Về việc nuôi con và tài sản chung: Hai bên đương sự không có yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Đây là vụ án dân sự về việc “ Tranh chấp Ly hôn”, các bên đương sự hiện cư trú tại thôn C, xã P, huyện R, tỉnh Bình Phước. Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Hồ Quang S có đơn xin giải quyết vụ án vắng mặt. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh S không có yêu cầu gì; mặt khác, việc vắng mặt của anh S là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp pháp luật. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị T cho rằng, trong thời gian chung sống giữa nguyên đơn và bị đơn thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, đời sống chung vợ chồng không được hạnh phúc, anh S không quan tâm, chăm sóc gia đình. Xét thấy, chị T và anh S sống chung với nhau từ năm 2008, việc sống chung hoàn toàn tự nguyện, đến năm 2009 làm thủ tục đăng ký kết hôn tại chính quyền địa phương theo quy định, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh S đến tòa để tham gia phiên hòa giải nhưng anh vẫn vắng mặt, hơn nữa theo lời trình bày của nguyên đơn hiện anh chị đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

Tại phiên tòa chị T vẫn kiên quyết xin được ly hôn với anh S và theo kết quả xác minh tại chính quyền địa phương cũng thể hiện cuộc sống hôn nhân của anh chị không được hạnh phúc. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng vợ chồng giữa nguyên đơn và bị đơn đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị T là phù hợp.

 [3] Về việc nuôi con: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

 [4] Về tài sản và nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [5] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định của pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [6] Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; các điều 56 và 57 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T về việc “ Tranh chấp Ly hôn”.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Hồ Quang S.

2/ Về việc nuôi con: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3/ Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp trước đó theo biên lai thu tiền số 026706 ngày 17/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước. Chị T đã nộp đủ án phí.

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Đối với bị đơn anh Hồ Quang S vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:55/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Riềng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về