Bản án 55/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 55/2019/HS -ST NGÀY 24/07/2019 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 24 tháng 7 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2019/TLST-HS ngày 03/7/2019 đối với bị cáo:

Phạm Đình S; sinh ngày: 01/01/2000; tại xã HN, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa; trú tại: thôn KĐ, xã HN, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: học sinh; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đình X và bà Trần Thị N; tiền án, tiền sự: không.

Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/4/2019 đến ngày 12/4/2019 chuyển tạm giam cho đến nay Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Bị hại: Vũ Thị Hồng L; sinh ngày: 07/11/2003; nơi cư trú: thôn QT, xã HT, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

Đại diện hợp pháp của bị hại: anh Vũ Văn K; sinh năm: 1976; nơi cư trú: thôn QT, xã HT, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại: bà Lê Thị P - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thanh Hóa, có mặt.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Bá T; sinh năm: 1969; nơi cư trú: tiểu khu 6, thị trấn HT, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 28/3/2019, Phạm Đình S điều khiển xe môtô, biển kiểm soát 36F9 - 126.27 đến cổng trường Trung học cơ sở xã HT, huyện HT đón cháu Vũ Thị Hồng L, sinh ngày 07/11/2003 ở thôn TQ3 (nay là thôn QT), xã HT, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa ra Bỉm Sơn ăn uống. Đến khoảng 21 giờ, S chở cháu L chạy theo quốc lộ 1A vào nhà nghỉ Trường Hải thuộc tiểu khu 6, thị trấn Hà Trung. S vào quầy lễ tân và thuê một phòng thì được hướng dẫn lên phòng số 101, trên tầng hai của nhà nghỉ Trường Hải. S và cháu L vào phòng, rồi cháu L đi tắm trước, tắm xong cháu L không mặc quần áo mà chỉ quấn quanh người bằng một cái khăn tắm và lên giường nằm đắp chăn. S đi tắm sau, tắm xong thì S chỉ mặc quần bò và cởi trần đi ra ngoài rồi lên giường nằm ôm hôn và nói với cháu L“không biết hôn thì để anh dạy cho”. S tự cởi quần bò và quần lót của mình ra, sau đó S cởi chiếc khăn đang quấn quanh người cháu L ra. Quá trình nằm ôm hôn, cháu L nằm ngửa, còn S nằm trên, S dùng tay sờ vào ngực và bộ phận sinh dục của cháu L. S lấy tay cầm dương vật của mình cho vào âm đạo của cháu L và quan hệ tình dục với nhau, đến khi gần xuất tinh thì S rút dương vật của mình ra khỏi âm đạo của cháu L, rồi cho xuất tinh ra ga giường. Quan hệ xong, cả hai nằm ôm nhau ngủ đến khoảng 7 giờ sáng ngày 29/3/2019 thì S và cháu L lại tiếp tục quan hệ tình dục thêm một lần nữa, cách thức quan hệ giống như lần trước. Sau khi quan hệ tình dục xong, S và cháu L xuống trả phòng, S trả tiền thuê phòng rồi chở cháu L đi ăn sáng và ra Bỉm Sơn mua quần áo. Sau đó, S bắt taxi cho cháu L về nhà ở tại xã HT, HT, Thanh Hóa.

Khi biết sự việc cháu L đi chơi và có quan hệ tình dục với Phạm Đình S, ngày 31/3/2019 anh Vũ Văn K là bố đẻ cháu L đã làm đơn tố cáo đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung.

Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể ngày 31/3/2019 tại Bệnh viện đa khoa huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, xác định bộ phận sinh dục của Vũ Thị Hồng L:

+ Mặt trước trong đùi trái có hai vết tấy đỏ, đường kính mỗi vết có kích thước 02mm;

+ Bên ngoài âm hộ không tấy đỏ trầy xước;

+ Màng trinh rách cũ, mép vết rách không tấy đỏ;

+ Vùng tiền đình bên phải cạnh màng trinh có vết tấy đỏ đường kính 02mm;

+ Xung quanh lỗ niệu đạo nề đỏ.

Ngày 01/4/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Hà Trung đã ra Quyết định trưng cầu giám định tình dục số 56/CSĐT và Quyết định trưng cầu giám định tổn hại phần trăm sức khỏe số 57/CSĐT đối với cháu Vũ Thị Hồng L.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 170/2019/TTPY ngày 08/4/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa, kết luận: hiện tại tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của cháu Vũ Thị Hồng L là: 0% (không phần trăm).

Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 171/2019/TTPY ngày 08/4/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa, kết luận, tại thời điểm khám giám định pháp y về tình dục đối với Vũ Thị Hồng L:

+ Âm hộ, âm đạo không có tổn thương;

+ Màng trinh giãn rộng, không tìm thấy vết rách mới;

+ Siêu âm tử cung phần phụ hai bên bình thường;

+ Test HCG âm tính;

+ Xét nghiệm vi khuẩn âm đạo: Nấm (++), trực khuẩn Gram âm (++), bạch cầu (++).

+ Không tìm thấy tinh trùng và xác tinh trùng trong mẫu xét nghiệm;

+ Vũ Thị Hồng L không có thai;

+ Mẫu đã gửi của Vũ Thị Hồng L gửi giám định âm tính với kháng thể kháng HIV;

+ Tại thời điểm giám định pháp y về kháng thể kháng HIV trong máu: Vũ Thị Hồng L, sinh năm 2003, đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Hà Tân, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa không bị nhiễm HIV.

Ngày 03/4/2019 Phạm Đình S đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Ngày 09/4/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Hà Trung đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 61/CSĐT trưng cầu giám định HIV đối với Phạm Đình S. Tại bản kết luận giám định kháng thể kháng HIV trong máu số: HIV03/2019/TTPY ngày 24/4/2019 kết luận: Mẫu máu đã gửi của Phạm Đình S gửi giám định âm tính với kháng thể kháng HIV; Tại thời điểm giám định pháp y về kháng thể kháng HIV trong máu: Phạm Đình S, sinh năm 2000, đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa không bị bệnh HIV.

Cáo trạng số 58/CT-VKS ngày 02/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a, khoản 2, Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm a, khoản 2, Điều 145; Điều 38; điểm b, điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 36 tháng đến 39 tháng tù.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại nhất trí với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các bản kết luận giám định, đủ cơ sở khẳng định: Đêm 28/3/2019 và sáng ngày 29/3/2019 tại phòng số 101, trên tầng hai của nhà nghỉ Trường Hải thuộc Tiểu khu 6, thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung,tỉnh Thanh Hóa, Phạm Đình S đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục hai lần với cháu Vũ Thị Hồng L, sinh ngày 07/11/2003. Mặc dù, việc quan hệ tình dục là hoàn toàn tự nguyện nhưng tại thời điểm bị cáo quan hệ tình dục, cháu L chưa đủ 16 tuổi. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố bị cáo về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 145 Bộ luật hình năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến thân thể, nhân phẩm, danh dự của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây dư luận xôn xao và bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người đã thành niên có đủ năng lực để nhận thức về hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là vi phạm pháp luật, mặc dù giữa bị cáo và bị hại có mối quan hệ tình cảm yêu thương nhau, nhưng việc xâm phạm thân thể với người dưới 16 tuổi, ở độ tuổi mà thể chất và nhận thức còn hạn chế, đã ảnh hưởng đến sức khỏe, sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của bị hại. Vì ham muốn dục vọng của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và đạo lý, thực hiện hành vi giao cấu 2 lần với bị hại. Vì vậy, phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải, bị cáo cũng đã tác động tới gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s, khoản 1, điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo đầu thú, bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2, điều 51 Bộ luật hình sự. Cần áp dụng những tình tiết này để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]. Về bồi thường: Gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại được 10.000.000 đồng. Trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm, nên miễn xét.

[4]. Về vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Hà Trung đã thu giữ một chiếc xe môtô, biển kiểm soát 36F9 - 126.27 mà S sử dụng làm phương tiện đi lại trong các ngày 28/3 và 29/3/2019. Chiếc xe này S khai mua lại tại một cửa hàng cầm đồ, không có giấy tờ mua bán và đăng ký xe. Do chưa có kết quả tra cứu và không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Hà Trung tách chiếc xe môtô nói trên để xử lý sau khi có kết quả tra cứu là phù hợp.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, khoản 2, Điều 145; Điều 38; điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 1. Về tội danh: Bị cáo Phạm Đình S phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Đình S 3 (Ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 03/4/2019.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6, Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Phạm Đình S phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

384
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:55/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về