Bản án 56/2019/HS-ST ngày 05/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 56/2019/HS-ST NGÀY 05/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đ mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 59/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Đinh Thị H, sinh năm 1990 tại Cao Bằng; nơi cư trú đội 3, ấp S, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Tày, giới tính: Nữ, tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đinh Văn P (đã chết) và bà Nông Thị D, sinh năm 1962, bị cáo có chồng là anh Phạm Đức T, sinh năm 1986 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại “có mặt”.

Người bị hại: Chị Lã Thị B, sinh năm 1992; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú thôn P, xã P, huyện C, tỉnh Lâm Đồng; chổ ở hiện nay đội 02, ấp P, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 06/2018, Đinh Thị H được Công ty SHANG YING ở Khu công nghiệp Đ, thuộc phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước nhận vào làm việc tại xưởng A3 – TS8 – T08. Quá trình làm việc H quen biết chị Lã Thị B, đến ngày 27/01/2019 H đang làm việc thì hết chỉ may giầy nên đã đi lấy chỉ tại khu vực để chỉ của xưởng là nơi chị B làm việc hàng ngày nhưng không thấy chị B ngồi ở đây. H cúi xuống lấy chỉ thì thấy dưới gầm ghế nơi chị B làm việc có một thẻ ATM do Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhanh Bình Phước (BIDV) phát hành, H cầm lên xem thì thấy tên chủ thẻ là Lã Thị B nên H lấy bỏ vào túi áo của mình rồi tiếp tục đi làm và sau đó cất vào giỏ xách đựng đồ đi làm. Đến khoảng 16 giờ 00 phút ngày 31/01/2019, khi tan ca ra về H đi đến trụ ATM của Ngân hàng An Bình (ABBANK) tại đường Hùng Vương, khu phố T, phường T, tỉnh Bình Phước rút tiền trong thẻ ATM của mình. Lúc này H thấy trong giỏ xách có thẻ ATM của chị B nên H đút thẻ vào trụ ATM và nhập mật khẩu thẻ ATM của chị B là số điện thoại của chị B số 636842 mà trước đây chị B có nói cho H biết, H đã dùng thẻ ATM của chị B rút ra 03 lần mỗi lần 3.000.000 đồng, tổng số tiền H đã rút ra là 9.000.000 đồng. Sau khi rút tiền xong H lấy thẻ cất vào giỏ xách của mình, khoảng 02 ngày sau H đã ném thẻ ATM của chị B xuống suối dưới cầu S, thuộc xã Đ, huyện Đ. Đến ngày 04/03/2019 Đinh Thị H đã đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và giao nộp số tiền 9.000.000 đồng.

Ngày 06/3/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã ra quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả cho chị Lã Thị B số tiền 9.000.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 60/CT-VKS-ĐX ngày 03/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo Đinh Thị H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Thị H mức án từ 06 đến 09 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo H tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại pH tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 60/CT-VKS-ĐX ngày 03/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại, biên bản người phạm tội ra đầu thú, biên bản thu giữ đồ vật, tài liệu, kết luận điều tra, cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Lợi dụng việc chị Lã Thị B sơ hở trong việc để chiếc thẻ ATM của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Bình Phước (BIDV) dưới gầm ghế chỗ làm tại xưởng A3 – TS8 – T08 Công ty SHANG YING ở khu công nghiệp Đ, thuộc phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước nên ngày 27/01/2019 Đinh Thị H đã lén lút lấy trộm cất giấu, đến khoảng 16 giờ ngày 31/01/2019 sau khi tan ca về H đã đến Ngân hàng An Bình (ABBank) 03 lần rút với số tiền 9.000.000 đồng, sau đó đem cất giấu số tiền và ném bỏ chiếc thẻ ATM.

[3] Căn cứ vào hành vi bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo chiếm đoạt số tiền 9.000.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Bị cáo là người đã thành niên, hoàn toàn nhận thức được việc lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để lén lút chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội nhưng vì mục đích vụ lợi cá nhân mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại, là khách thể được pháp luật bảo vệ, vì vậy cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội bị cáo gây ra mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội đã tự nguyện ra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội; bị cáo là người dân tộc thiểu số, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được trả lại cho người bị hại nên chưa gây thiệt hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo còn 02 con nhỏ, chồng bị cáo bị tai nạn thương tật, do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo để giáo dục mà chỉ cần lên cho bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội, cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách, giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại chị Lã Thị B đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Đinh Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đinh Thị H 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Tuyên giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự

3. Về trách nhiệm dân sư: Do các bên không ai có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo; người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HS-ST ngày 05/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:56/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về