Bản án 56/2019/HSST ngày 19/07/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L - TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 56/2019/HSST NGÀY 19/07/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 19 tháng 7 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 62/2019/TLST-HS ngày 11/6/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2019/QĐXXST-HS ngày 03/7/2019 đối với bị cáo:

TRẦN NGỌC D, sinh năm 1994 tại huyện C, tỉnh An Giang. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 2, ấp Bình An 2, xã A, huyện C, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Đạo Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Ngọc C và bà Nguyễn Thúy P; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 15/2/2019, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang xử phạt hành chính 85.000.000đ về hành vi “Vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu”; xử phạt hành chính 1.250.000đ về hành vi điều khiển xe đi không đúng phần đường, điều khiển lại xe sản xuất, lắp ráp trái quy định tham gia giao thông. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 31/3/2019 đến nay và bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn G, sinh năm 1994. Địa chỉ: Ấp An Hòa A, xã M, huyện M, tỉnh An Giang. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 15/2/2019, Trần Ngọc D bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang xử phạt hành chính 85.000.000đ về hành vi vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu nhưng chưa chấp hành quyết định phần nộp phạt. Đến khoảng 04 giờ 30 phút rạng sáng ngày 31/3/2019, Trần Ngọc D điều khiển xe mô tô biển số 67B1-558.02 trên Quốc lộ 91, đoạn đường thuộc phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông đường bộ - Công an tỉnh An Giang kiểm tra hành chính, phát hiện trên xe chở 1.490.000đ bao thuốc lá điếu nhập lậu nên tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính, chuyển giao vụ việc cho Công an thành phố L giải quyết theo quy định. Duy bị khởi tố, bắt tạm giam để điều tra.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 xe mô tô biển số 67B1-558.02; 750 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 740 bao thuốc lá điếu hiệu Jet; 01 điện thoại di động hiệu Nokia.

Kết luận giám định số 32/KLGT-PC09 ngày 26/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang xác định:

Xe mô tô biển số 67B1-558.02, có số khung VLKPCH022LK*004234*, số máy VLKZS1P53FMH*00004234* không bị đục sửa;

Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 31 tháng 3 năm 2019 của Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ Công an tỉnh An Giang, ghi nhận:

Xe mô tô biển số 67B1-558.02, số khung VLKPCH022LK004234, số máy VLKZS1P53FMH00004234, chủ sở hữu Nguyễn Văn G.

Cáo trạng số: 63/CT-VKS ngày 10/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, truy tố Trần Ngọc D về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà sơ thẩm:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Ngọc D từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù;

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị: Tịch thu phát mãi sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô biển số 67B1-558.02 cùng 01 điện thoại di động hiệu Nokia; Tịch thu tiêu hủy: 750 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 740 báo thuốc lá điếu hiệu Jet.

* Bị cáo Trần Ngọc D khai nhận: Bị cáo đang học nghề sửa xe mô tô, do cần tiền tiêu xài nên bị cáo có nhận chở thuê thuốc lá điếu nhập lậu cho người tên D (không rõ họ). Rạng sáng ngày 31/3/2019, D điều khiển xe 67B1-558.02 đến khu vực cầu Bình Hòa, huyện C, tỉnh An Giang nhận thuốc lá điếu nhập lậu từ người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) và chạy trước dẫn đường cho bị cáo chở hàng cấm đến lộ tẻ thuộc quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ với tiền công 200.000 đồng. Trên đường đi thì Duy bị Công an kiểm tra phát hiện lập biên bản như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Chiếc xe mô tô biển số 67B1-558.02, Duy mua của người không rõ họ tên, địa chỉ với giá 2.000.000đ khi người này đến sửa xe tại tiệm của bị cáo. Trước đó, bị cáo bị xử phạt hành chính 85.000.000đ về hành vi vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu, bị cáo chưa có tiền đóng phạt thì tiếp tục vi phạm pháp luật. Đối với phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt, bị cáo không có ý kiến tranh luận, yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội vừa qua.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không kêu oan, không khiếu nại.

[2] Về thủ tục tố tụng Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn G vắng mặt tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát không ý kiến về việc vắng mặt của những người này và đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án. Xét thấy quá trình điều tra, Cơ quan điều tra – Công an thành phố L đã tiến hành lấy lời khai, làm rõ về nguồn gốc chiếc xe mô tô 67B1-55802 nên việc vắng của anh G tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về trách nhiệm hình sự Bị cáo Trần Ngọc D bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang xử phạt hành chính 85.000.000đ về hành vi vận chuyển trái phép thuốc lá điếu nhập lậu, chưa chấp hành quyết định về khoản nộp phạt lại tiếp tục thực hiện hành vi vận chuyển 1.490 bao thuốc lá điếu nhập lậu vào ngày 31/3/2019, bị Cảnh sát giao thông đường bộ - Công an tỉnh An Giang kiểm tra hành chính phát hiện bắt giữ cùng tang vật. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra vụ án.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo Trần Ngọc D theo khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 có khung hình phạt từ 06 tháng đến 03 năm tù.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Trần Ngọc D từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Duy khai vận chuyển thuê thuốc lá điếu nhập lậu từ người tên D.

Qua xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố L xác định D có họ tên là Huỳnh Thị Thu C, hiện không có mặt ở nơi cư trú. Ngoài ra, người đàn ông giao thuốc lá điếu nhập lậu cho bị cáo vận chuyển và chạy trước dẫn đường cho bị cáo, do chưa xác định được nhân thân cũng như ngoài lời của bị cáo không có chứng cứ nào khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L điều tra, làm rõ và xử lý sau.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội Bị cáo là thanh niên đã trưởng thành, khỏe mạnh và nhận thức được hành vi của bản thân. Lẽ ra với sức lao động của tuổi trẻ, bị cáo tìm công việc phù hợp để tạo ra thu nhập chân chính để nuôi sống bản thân và gia đình, sống có ích cho xã hội nhưng ngược lại, bị cáo muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài và biết vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu là hàng cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, mặc dù đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, thể hiện bị cáo liều lĩnh, xem thường pháp luật. Mặt khác, nhằm để tránh sự truy quét của các cơ quan chức năng, khi vận chuyển hàng cấm bằng xe mô tô bị sẽ cáo điều khiển xe với tốc độ cao, nếu không làm chủ được tay lái, bị cáo có thể gây tại nạn giao thông, gây tổn hại sức khỏe cho người tham gia giao thông và chính bị cáo, là gánh nặng của gia đình và xã hội. Ngoài ra, hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và những hàng hóa Nhà nước cấm tàng trữ mua bán, vận chuyển vào nội địa Việt Nam bằng mọi hình thức. Do đó, cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ thực hiện hành vi của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân biết tôn trọng pháp luật, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.

Ngoài hình phạt chính, Điều luật còn quy định về hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền nhưng bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét không buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung theo khoản 4 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, điều này thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đối với giảm nhẹ hình nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, thuộc trường hợp người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Xét thấy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra - Công an thành phố L có chuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố L theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/7/2019 gồm: 01 xe mô tô biển số 67B1-558.02 cùng 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280. Đây là phương tiện, tài sản dùng vào việc phạm tội nên tịch thu phát mãi sung ngân sách nhà nước. Đối với 750 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 740 báo thuốc lá điếu hiệu Jet là tang vật phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc D phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Căn cứ vào: điểm e khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106; Điều 136; Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn G.

Tuyên xử:

[1] Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc D 01 (một) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 31/3/2019.

[2] Xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác Tịch thu phát mãi sung ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô biển số 67B1- 558.02 cùng 01 điện thoại di động hiệu Nokia;

Tịch thu tiêu hủy: 750 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 740 bao thuốc lá điếu hiệu Jet.

(Xử lý vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/7/2019 giữa Cơ quan quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố L với Chi cục thi hành án dân sự thành phố L).

[3] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

392
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HSST ngày 19/07/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:56/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về