Bản án 56/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BB - TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 56/2019/HS-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện BB, tỉnh Bình Thuận, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 49/2019/TLHS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Kh, năm sinh 1993 (do bị cáo tự khai tên và năm sinh); Hộ khẩu thường trú: không có; Nơi sinh sống hiện nay: khu vực chợ Đầu mối nông sản huyện Hốc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Bốc xếp; trình độ văn hóa: không học; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha, mẹ (không biết), anh, chị em, vợ, con: không có; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/5/2019 chuyển sang tạm giam từ ngày 27/5/2019 đến nay (có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại: Võ Thuận H, sinh năm 1975 (có mặt)

Nơi cư trú: Khu phố P, thị trấn CL, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

Người làm chứng:

1/Nguyễn Duy Nh, sinh năm 1995 (vắng mặt)

2/Nguyễn Hữu D, sinh năm 1995 (vắng mặt)

3/Huỳnh Sông S, sinh năm 2004 (vắng mặt)

Cùng nơi cư trú: thôn Bình H, xã Phan H, huyện BB, tỉnh Bình Thuận

4/Qua Văn T, sinh năm 1990 (vắng mặt)

Nơi cư trú: thôn Bình Đ, xã Phan H, huyện BB, tỉnh Bình Thuận

5/Châu Văn C, sinh năm 1993 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Phường Mỹ X, thị xã Phú M, tỉnh T

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1993 (tên và năm sinh do bị cáo khai) không có hộ khẩu thường trú và sống lang thang khu vực Chợ đầu mối nông sản huyện Hốc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Vào sáng ngày 17/5/2019, Nguyễn Văn Kh nảy sinh ý định đi ra tỉnh Bình Thuận trộm bò bán lấy tiền trả nợ nên lên mạng xã hội (facebook) tìm xe ô tô nhận chở thuê. Kh tìm được tên facebook Vũ Văn S (Hoàng) là chủ doanh nghiệp tư nhân vận tải U giao dịch với anh Hoàng thuê xe ô tô tải đi Bình Thuận chở hàng và được anh Hoàng đồng ý nhưng xe anh Hoàng kẹt và anh Hoàng có liên hệ xe anh Châu Văn C là bạn quen giới thiệu lại và giao số điện thoại của Nguyễn Văn Kh cho Châu Văn C liên lạc với nhau. Sau khi có số điện thoại, Kh và C điện thoại hẹn nhau đón tại cổng số 11, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Nguyễn Văn Kh điện thoại cho người tên Cu C là bạn quen trên facebook chạy xe máy biển số 83F5-7018 ra cổng 11, Biên Hòa cùng Kh đợi đón xe của Châu Văn C đi ra Bình Thuận được Cu C đồng ý. Đến 11 giờ cùng ngày, Châu Văn C điều khiển xe ô tô tải biển số 72C-14458 ra cổng 11 đón Kh và Cu C cùng bỏ xe máy lên xe ô tô ra Bình Thuận. Đến khu vực Điện gió huyện P, tỉnh Bình Thuận, Kh và Cu C bảo Châu Văn C dừng nghỉ đợi xe hàng vô chở hàng. Kh và Cu C đi đón xe hàng. C nằm nghỉ uống cà phê. Cu C chạy xe máy biển số 83F5-7018 chở Nguyễn Văn Kh đi ngược lại hướng huyện BB, Bình Thuận tìm bò trộm, đến khu vực thôn Bình H, xã Phan H, huyện BB, Cu C nhìn thấy 03 con bò của ông Võ Thuận H đang cột ở đồng trống cách Quốc lộ 1A 35m. Cu C quay xe lại xuống xe đi đến chổ 3 con bò tháo dây lùa đi về hướng nhà văn hóa thôn Bình H có gò đất cao cột bò. Kh ngồi trên xe canh chừng Cu C tháo dây dắt bò và điều khiển xe đi cùng phụ Cu C lùa bò. Sau khi cột bò xong, Nguyễn Văn Kh điện thoại cho Châu Văn C điều khiển xe ngược về hướng Phan Thiết đến địa điểm cột bò để đưa bò lên xe. Thấy ô tô tải đến chở bò nên Nguyễn Hữu D và Huỳnh Sông S đến xem và Kh nhờ D và S phụ đưa bò lên xe và cho S và D 100.000đ. Sau khi đưa bò lên xe xong nhưng xe bị lún không đi được nên Qua Văn T và Nguyễn Duy Nh đến xem. Lúc này D nghi ngờ trộm bò nên nói với Nh liên hệ tìm chủ bò báo, S và T tìm cách giữ lại xe. Kh và Cu C nghe người dân xì sầm nên sợ phát hiện bỏ chạy nhưng bị người dân rượt đuổi theo bắt được Nguyễn Văn Kh. Cu C chạy thoát. Ông Võ Thuận H đến nhận dạng 03 con bò trên xe ô tô tải biển số 72C-14458 là của ông H và báo Công an huyện xuống lập biên bản phạm tội quả tang cùng đưa tang vật về trụ sở Công an làm việc.

Kết luận định giá số 26/2019/HĐ ĐG-TTHS ngày 27/5/2019 như sau:

+ 01 con bò cái mẹ 10 năm tuổi, màu móc trắng, có 2 sừng, có trọng lượng thịt hơi 180kg, tỷ lệ thịt tinh 35%, giá 200.000đ/kg thịt tinh, trị giá 12. 600.000đ +01 con bò cái tơ 18 tháng tuổi, màu mốc trắng, có 2 sừng, có trọng lượng thịt hơi 110kg, tỷ lệ thịt tinh 35%, giá 200.000đ/kg thịt tinh, trị giá 7.700.000đ

+01 con bò cái tơ 06 tháng tuổi, màu xám đen, có 2 sừng, có trọng lượng thịt hơi 80kg, tỷ lệ thịt tinh 35%, giá 200.000đ/kg thịt tinh, trị giá 5. 600.000đ.

Tổng giá trị 03 con bò 25. 900.000đ (Hai mươi lăm triệu chín trăm nghìn đồng): Cơ quan điều tra đã lập biên bản thu giữ tang vật 03 con bò sau khi giám định đã giao trả lại cho chủ sở hữu Võ Thuận H ngày 18/5/2019);

+Thu giữ của Nguyễn Văn Kh 01 xe mô tô hiệu Dream biển số xe 83F5-7018 (không giấy tờ sở hữu), Cơ quan điều tra đã ra thông báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa tìm được nên Cơ quan điều tra tiếp tục thu giữ điều tra xác minh xử lý theo qui định pháp luật), tiền Việt Nam đồng là 1. 106.000đ (Một triệu một trăm lẻ sáu nghìn đồng) đã chuyển tài khoản Chi cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 30/8/2019, 01 giỏ đeo màu tím, 01 ví da màu đen,01 điện thoại di động hiệu Nokia 1200 màu đen xám, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu xanh, sim số 0918105026, 01 thẻ sim số 0933729630 đã chuyển kho chi Cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 09/9/2019

+Thu giữ của Huỳnh Sông S 100.000đ tiền của Kh trả tiền phụ đưa bò lên xe (Đã chuyển tài khoản tạm giữ của Chi cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 03/9/2019

+ Thu giữ của Châu Văn C01 xe ô tô biển số 72C-14458, 01 giấy chứng nhận kiển định xe ô tô biển số 72C-14458, 01 đăng ký chứng nhận xe ô tô biển số 72C-14458 (phô tô), 01 giấy phép lái xe ô tô B2 tên Châu Văn C, 01 căn cước công dân tên Châu Văn Cường, 01 ví tiền màu đen có tiền 6. 150.000đ (Qua xác minh, điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại toàn bộ tài sản thu của Châu Văn C do không liên quan hành vi trộm bò của Nguyễn Văn Kh).

+Bị hại Võ Thuận H đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn Kh bồi thường gì thêm.

Đối với hành vi của Cu C hiện nay chưa xác minh được nên Cơ quan điều tra ra quyết định tách vụ án số 04 ngày 14 tháng 8 năm 2019 không xem xét trong vụ án này.

Tại cáo trạng số 50/CT-VKS-HBB ngày 29/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện BB truy tố bị cáo Nguyễn Văn Kh về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện VKS thực hành quyền công tố sau khi phân tích hành vi tính chất phạm tội giữ nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Văn Kh theo tội danh và điều, khoản mà Viện kiểm sát truy tố, áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa có tiền án, tiền sự qui định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Khánh từ 12-15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Hình phạt bổ sung: không;

Về xử lý tang vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

+ Đề nghị Hội đồng xét xử trả lại bị cáo Nguyễn Văn Kh số tiền 1. 106.000đ (Một triệu một trăm lẻ sáu nghìn đồng); 01 giỏ đeo màu tím, 01 ví da màu + Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 thẻ sim số 09337296301 và sim số 0918105026

+ Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1200 màu đen xám, điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu xanh và số tiền 100.000đ của Nguyễn Văn Kh dùng vào việc phạm tội Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét do bị hại nhận lại tài sản không yêu cầu gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện BB, Điều tra viên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện BB trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử đánh giá các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp và đúng pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử xử vắng mặt những người làm chứng là phù hợp qui định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn Kh đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng nêu và đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 14), lời khai của bị hại Võ Thuận H tại phiên tòa và lời khai người làm chứng Nguyễn Duy Nh, Qua Văn T, Huỳnh Song S, Nguyễn Hữu D, Châu Văn C (BL101-127), đơn tố cáo của bị hại (BL40), kết luận định giá tài sản số 26/2019/HĐĐG-TTHS ngày 27/5/2019 (bl 48) và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụa án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn Kh có hành vi lén lút dắt dịch chuyển 03 con bò cái của ông Võ Thuận H đang cột trên đồng đưa lên xe ô tô tải định chở đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, giá trị tài sản 25. 900.000đ (Hai mươi lăm triệu chín trăm nghìn đồng) đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3]Bị cáo lợi dụng bị hại để tài sản không người trông coi nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt có sự chuẩn bị trước thuê xe ô tô tải từ Đồng Nai ra tỉnh Bình Thuận để trộm. Hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân. Bị cáo nhận thức được tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ nhưng do bị cáo tham lam, lười lao động đã thực hiện hành vi phạm tội. Tội phạm bị cáo gây ra tuy ít nghiêm trọng nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức án nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và cũng răn đe phòng ngừa tội phạm chung tại địa phương.

[4]Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn Kh đã thành khẩn khai báo, ăn ăn hối cải, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xem giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5]Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về áp dụng điều luật, tội danh, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ cũng như biện pháp tư pháp đối với bị cáo Nguyễn Văn Khánh là phù hợp ngh nên chấp nhận.

[6]Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Võ Thuận H nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn Kh bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 03 con bò Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại Võ Thuận Hiếu là đúng qui định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

+ Số tiền 1. 106.000đ (Một triệu một trăm lẻ sáu nghìn đồng) đã chuyển tài khoản tạm giữ Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Bình ngày 30/8/2019; 01 giỏ đeo màu tím, 01 ví da màu đen đã chuyển kho chi Cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 09/9/2019 không phải là phương tiện,công cụ dùng vào việc phạm tội trong vụ án nên trả lại bị cáo Nguyễn Văn Kh được qui định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Đối với 01 thẻ sim số 09337296301 và sim số 0918105026 là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy được qui định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1200 màu đen xám, điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu xanh (đã chuyển kho chi Cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 09/9/2019) và số tiền 100.000đ (Đã chuyển tài khoản tạm giữ của Chi cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 03/9/2019) Nguyễn Văn Kh dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước được qui định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

+ Đối với 01 xe ô tô biển số 72C-14458, 01 giấy chứng nhận kiển định xe ô tô biển số 72C-14458, 01giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 72C-14458 (phô tô), 01 giấy phép lái xe ô tô B2 tên Châu Văn C, 01 căn cước công dân tên Châu Văn C, 01 ví tiền màu đen có tiền 6. 150.000đ. Qua xác minh, điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại toàn bộ tài sản thu của Châu Văn C do không liên quan hành vi trộm bò của Nguyễn Văn Kh là đúng qui định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Đối với 01 xe mô tô hiệu Dream, biển số xe 83F5-7018 (không giấy tờ sở hữu), Cơ quan điều tra đã ra thông báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa tìm được, Cơ quan điều tra tiếp tục thu giữ điều tra xác minh xử lý theo qui định pháp luật nên không xử lý trong vụ án này.

[8]Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Khánh phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm được qui định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 của UBTVQH 2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

-Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

+Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Kh phạm tội “Trộm cắp tài sản”

+Tuyên phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Kh 12 (Mười hai ) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày 18/5/2019 -Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

+Trả lại cho Nguyễn Văn Kh: Số tiền 1. 106.000đ (Một triệu một trăm lẻ sáu nghìn đồng) đã chuyển tài khoản tạm giữ Chi cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 30/8/2019 và 01 cái giỏ đeo màu tím, 01 ví da màu đen (đã chuyển kho chi Cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 09/9/2019)

+Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia 1200 màu đen xám, 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu xanh (đã chuyển kho chi Cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 09/9/2019) và 100.000đ (Một trăm nghìn) đã chuyển tài khoản tạm giữ của Chi cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 03/9/2019.

+Tịch thu tiêu hủy: 01 thẻ sim số 0933729630 và 01 sim số 0918105026 -Căn cứ vào: Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Kh phải nộp 200.000đ tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai có mặt bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:56/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về