Bản án 562/2018/DS-ST ngày 04/10/2018 về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 562/2018/DS-ST NGÀY 04/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG

Trong ngày 04 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 2080/2017/TLST-DS ngày 20 tháng 11 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4449/2018/QĐST- DS ngày 28 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 4820/2018/QĐST-DS ngày 18 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T; Trụ sở: Lầu 8, 266-268 đường N, Phường H, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm Trường T, sinh năm 1994 (Văn bản ủy quyền ngày 02 tháng 01 năm 2018) ( Có đơn xin vắng mặt ngày 02/10/2018).

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1977; Địa chỉ: 265/7/39 đường P, phường L, Quận M, Thành phố H (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Sài Gòn T do ông Phạm Trường T là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 29 tháng 12 năm 2011, Ngân hàng TMCP Sài Gòn T và bà Nguyễn Thị Hồng T có ký hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Căn cứ vào thu nhập của bà T, Ngân hàng TMCP Sài Gòn T đồng ý cấp thẻ tín dụng Master 512341-5793 với hạn mức sử dụng 40.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân cho bà T. Sau đó, ngày 28 tháng 6 năm 2012, bà T có đăng ký thêm và được Ngân hàng cấp thêm thẻ tín dụng Family Credit 970403-9233, với hạn mức sử dụng chung là 40.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân.

Sau khi được cấp các thẻ tín dụng nói trên, bà Nguyễn Thị Hồng T đã thực hiện các giao dịch chi tiêu cá nhân, từ tháng 4/2016 đến nay thì bà T không thanh toán nợ cho Ngân hàng TMCP Sài Gòn T; Ngân hàng TMCP Sài Gòn T đã nhiều lần gửi thông báo nhắc nợ cho bà T nhưng bà vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Do bà T vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 23 tháng 6 năm 2016, Ngân hàng TMCP Sài Gòn T đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu của 02 thẻ tín dụng tạm tính đến ngày 04/10/2018 là 63.706.670 đồng; trong đó nợ vốn gốc là 32.515.394 và nợ lãi quá hạn là 31.191.276 đồng sang nợ quá hạn theo quy định tại Điều 23 của Bản điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng Sài Gòn T với lãi suất quá hạn của thẻ tín dụng Master 512341-5793 là 3,225%/tháng và thẻ tín dụng Family Credit 970403- 9233 là 3,75%/tháng. Yêu cầu thanh toán làm một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật và tiếp tục trả tiền lãi phát sinh tính từ ngày 04/10/2018 cho đến khi thanh toán xong khoản tiền nợ.

Bị đơn là bà Nguyễn Thị Hồng T không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo mặc dù đã được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Toà án.

Tại phiên tòa:

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có yêu cầu vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thời hiệu, thực hiện thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Viện Kiểm sát nhân dân Quận 1 không có kiến nghị gì về tố tụng.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Sài Gòn T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]Về pháp luật tố tụng:

Ngân hàng TMCP Sài Gòn T có đơn khởi kiện tranh chấp Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đối với bà Nguyễn Thị Hồng T. Xét bà Nguyễn Thị Hồng T cư trú tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh theo kết quả xác minh của Công an phường L, Quận M. Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]Về nội dung:

Đối với yêu cầu của Nguyên đơn đòi số tiền gốc của 02 thẻ tín dụng là 32.515.394 đồng, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ do nguyên đơn cung cấp, gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng và Bảng sao kê thẻ tín dụng dụng Master 512341-5793 và thẻ tín dụng Family Credit 970403-9233, đã có đủ cơ sở xác định: Với Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng, bà Nguyễn Thị Hồng T đã đề nghị và được Ngân hàng TMCP Sài Gòn T cấp thẻ tín dụng Master 512341-5793 và thẻ tín dụng Family Credit 970403-9233 với hạn mức 40.000.000 đồng. Đây là Hợp đồng vay tài sản thông qua hình thức sử dụng thẻ tín dụng nhằm mục đích tiêu dùng cá nhân. Trong thời gian sử dụng thẻ tín dụng, bà T đã thực hiện các giao dịch khác nhau và ngưng thực hiện nghĩa vụ thanh toán từ tháng 4/2016 theo các sao kê do phía nguyên đơn nộp. Do bà T vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 23 tháng 6 năm 2016, Ngân hàng TMCP Sài Gòn T đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ nợ vốn gốc của 02 thẻ tín dụng là 32.515.394 đồng sang nợ quá hạn theo quy định tại Điều 23 của Bản điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP Sài Gòn T. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, thông báo hòa giải, giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng bà T vẫn không có mặt để giải quyết vụ án, mặc nhiên từ bỏ quyền lợi của chính mình, đồng thời phải chịu mọi hậu quả đối với việc vắng mặt này; Hội đồng xét xử xét thấy bà T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ đã được các bên thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng nên yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Sài Gòn T về việc bà T phải trả tiền nợ gốc 32.515.394 đồng là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng nên có cơ sở chấp nhận.

Đối với yêu cầu về nợ lãi quá hạn của nguyên đơn Hội đồng xét xử nhận thấy: Xét, nợ lãi quá hạn mà Ngân hàng TMCP Sài Gòn T yêu cầu bị đơn phải thanh toán được xác định theo thỏa thuận của các bên tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng căn cứ trên Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP Sài Gòn T kèm theo; thỏa thuận này phù hợp với quy định tại tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng và Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về ban hành quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng do đó cần xem xét chấp nhận, buộc bà Nguyễn Thị Hồng T phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP Sài Gòn T nợ lãi quá hạn tính đến ngày xét xử vụ án (04/10/2018) là 31.191.276 đồng. Như vậy, tổng số tiền lãi bà Nguyễn Thị Hồng T phải trả cho Ngân hàng TMCP Sài Gòn T là 31.191.276 đồng.

[3] Về án phí:

Căn cứ Điều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Điều 5 và khoản 4 Điều 27 Pháp lệnh án phí và lệ phí tòa án.

Bà Nguyễn Thị Hồng T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng TMCP Sài Gòn T không phải chịu án phí và được hoàn lại tiền tạm ứng án phí.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Điều 463; Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Khoản 2 Điều 91 và khoản 2 Điều 95 Luật các Tổ chức Tín dụng năm 2010;

Điều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Điều 5 và khoản 4 Điều 27 Pháp lệnh án phí và lệ phí Tòa án.

Luật thi hành án dân sự;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

Buộc bà Nguyễn Thị Hồng T phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn T số tiền 63.706.670 (Sáu mươi ba triệu bảy trăm linh sáu nghìn sáu trăm bảy mươi) đồng (trong đó nợ gốc là 32.515.394 đồng và nợ lãi quá hạn là 31.191.276 đồng). Trả làm một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm bà Nguyễn Thị Hồng T còn phải tiếp tục chịu khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

Thi hành dưới sự giám sát của Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị Hồng T phải chịu 3.185.334 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; Hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn T 1.258.968 (Một triệu hai trăm năm mươi tám nghìn chín trăm sáu mươi tám) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2017/0022331 ngày 20/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn và bị đơn (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

480
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 562/2018/DS-ST ngày 04/10/2018 về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng

Số hiệu:562/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về