Bản án 57/2017/HSST ngày 14/08/2017 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN 

BẢN ÁN 57/2017/HSST NGÀY 14/08/2017 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 8 năm 2017, tại phòng xét xử, trụ sở Tòa án nhân dân huyện H,  tỉnh  Lạng Sơn  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  Hình  sự  thụ  lý  số: 52/2017/HSST, ngày 10 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Đỗ Xuân L, sinh ngày 08 tháng 5 năm 1995, tại Hữu Lũng, Lang Sơn. Nơi ĐKHKTT: Khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

Chỗ ở: Thôn C, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Công Nhân; Trình độ văn hoá: 12/12; Con ông: Đỗ Xuân Đ (đã chết); Và bà: Hồ Thị L, sinh năm 1962; Có 02 anh em, bị cáo là thứ hai; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13 tháng 4 năm 2017 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Trần Tiến D, sinh năm 1992.

Trú tại: Thôn V, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:1, Anh Phạm Văn Q, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Thôn C, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2, Bà Hồ Thị L1, sinh năm 1962.

Nơi ĐKHKTT: Số 08B, ngõ 15, đường T, Khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Đỗ Xuân L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Đỗ Xuân L và Trần Tiến D, ở Thôn V, xã M, huyện H có quen biết nhau trong nhóm chơi xe mô tô EXCITER. Ngày 09/4/2017, Đỗ Xuân L và Trần Tiến D cùng những người khác trong nhóm đi vào xã Hữu Liên, huyện H chơi rồi cùng nhau quay lại quán hát Karaoke ở khu cầu 10, thị trấn H, huyện H hát và uống rượu đến khoảng 19h mọi người nghỉ, Đỗ Xuân L thấy Trần Tiến D đang trong tình trạng say rượu, nên bảo D đưa xe mô-tô nhãn hiệu YAMAHA - EXCITER biển kiểm soát 12H1-217.16 của D cho L đưa về phòng trọ của Nguyễn Sinh Q, ở số nhà 07, đường X, khu T1, thị trấn H, huyện H để nghỉ.

Khi đến nơi Đỗ Xuân L bảo Trần Tiến D vào phòng nghỉ để L đi mua đồ về uống rượu tiếp, D đồng ý. Đỗ Xuân L lấy xe mô-tô, đội theo mũ bảo hiểm của D đi và nghĩ D đã say rượu nên không mua đồ về uống rượu cùng D nữa mà L đi uống rượu cùng các bạn ở thôn D, xã S, huyện H. Đến khoảng 21h00’cùng ngày Đỗ Xuân L quay lại phòng trọ để đón D đi cùng mọi người, khi quay lại thấy Trần Tiến D đang ngủ và để ví ở trên đầu giường, Đỗ Xuân L đã lấy chiếc ví của D bên trong có khoảng 300.000đ (cả D và L không xác định được chính xác), 01 đăng ký xe mô-tô, 01 chứng minh thư nhân dân, 01 thẻ ATM của Ngân hàng AGRIBANK đều mang tên Trần Tiến D.

Đỗ Xuân L ra lấy xe mô-tô của D rồi đi hát Karaoke và uống rượu cùng Phạm Văn Q ở thôn C, xã M, huyện H và các bạn của Q ở quán Phóng Linh, thuộc thôn C1, xã M, huyện H đến khoảng 05h00’ ngày 10/4/2017, do không có tiền thanh toán với chủ quán nên Đỗ Xuân L nói với chủ quán cho nợ tiền và để xe mô- tô lại làm tin, buổi trưa đi rút tiền rồi quay lại lấy xe sau.

Đỗ Xuân L cùng Phạm Văn Q đi về nhà Q ngủ đến khoảng 10h cùng ngày, L nhờ Q dùng máy tính bảng của Q nhắn tin tìm người để cầm cố xe mô-tô biển kiểm soát 12H1 – 217.16 mà L mượn của Trần Tiến D, Q hỏi xe ai thì L bảo xe mới mua, L bảo Q vào nick ZALO của Nguyễn Thành T, ở thôn Cã Ngoài, xã M, huyện H (lúc này Từ Văn L, ở thôn L - B, xã M, huyện H đang cầm điện thoại của Tr), Q nhắn tin với nội dung “muốn vay 7.000.000đ và để lại xe mô-tô biển kiểm soát 12H1 – 217.16 để làm tin” ý L nói là cầm cố với Tr chiếc xe mô-tô nói trên, khi đọc được tin nhắn Từ Văn L nhắn lại với nội dung là đồng ý và hẹn nhau đến quán hát Karaoke Phóng Linh, ở thôn C1, xã M, huyện H để giao xe và giao tiền. Đỗ Xuân L nhờ Phạm Văn Q đưa xuống quán Karaoke gặp Nguyễn Thành T và Từ Văn L2, L2 đã đưa cho Đỗ Xuân L 7.000.000đ, L giao xe mô tô biển kiểm soát12H1-217.16 cùng chìa khóa, giấy đăng ký xe cho Đỗ Thành L.

Đỗ Xuân L dùng số tiền cầm cố xe trả tiền hát karaoke cho chủ quán hết2.200.000đ, đi chuộc điện thoại của L đã cầm cố trước đó hết 2.000.000đ rồi đón xe ô-tô khách đi xuống tỉnh Bắc Ninh, số tiền còn lại L dùng vào việc trả nợ và ăn tiêu hết, không có khả năng chuộc lại xe trả lại cho Trần Tiến D. Từ Văn L2 khi xem trên mạng xã hội thì phát hiện chiếc xe mô-tô biển kiểm soát 12H1 – 217.16 do Đỗ Xuân L phạm tội mà có nên đã đem giao nộp xe mô tô, chìa khóa xe, giấy đăng ký xe cho cơ quan điều tra.

Đối với chiếc mũ bảo hiểm, chứng minh thư nhân dân, thẻ ATM AGRIBANK Đỗ Xuân L bỏ ở nhà Phạm Văn Q, sau khi biết hành vi phạm tội của L, Q đã đem giao nộp cùng chiếc máy tính bảng và điện thoại di động.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 13/4/2017 của Hội đồng định giá tàisản trong tố tụng hình sự huyện H kết luận chiếc xe mô-tô biển kiểm soát 12H1 –217.16 do Đỗ Xuân L chiếm đoạt của Trần Tiến D có trị giá 37.000.000đ.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 18/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H kết luận chiếc ví giả da màu đen đã cũ và qua sử dụng không còn giá trị.

Những vật chứng đã thu giữ:

+ 01 xe mô-tô nhãn hiệu YAMAHA - EXCITER biển kiểm soát 12H1 –217.16, 01 giấy đăng ký xe, 01 giấy chứng minh thư nhân dân, 01 thẻ ATM ATM,01 chìa khóa xe, 01 mũ bảo hiểm.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT số IMEI 279807 và 01 máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG, số IMEI 28725/01.

Vật chứng bị mất không thu giữ được: Số tiền khoảng 300.000đ do Đỗ Xuân L lấy của Trần Tiến D đã ăn tiêu hết và 01 chiếc ví giả da màu đen, theo L khai là rơi mất ở quán hát Karaoke Phóng Linh, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thấy.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Hồ Thị L1 khi biết con trai Phạm Xuân L chiếm đoạt tài sản của Trần Tiến D, bà L1 đã trả cho D số tiền 7.000.000đ để D trả cho Đỗ Thành L2. Đối với tài sản là tiền, ví giả da bị mất Trần Tiến D không có yêu cầu đề nghị gì.

Bản Cáo trạng số: 57/VKS-HS, ngày 10 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đỗ Xuân L về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo điểm b khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Đỗ Xuân L giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra về hành vi phạm tội của mình và khẳng định bị cáo bị truy tố, xét xử về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là đúng; người bị hại anh Trần Tiến D trình bầy: Đã nhận được tài sản là chiếc xe mô tô, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm về dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên cáo trạng truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mụcđích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Xuân L phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 140; điểm h, p khoản 1, khoản 2Điều 46; các Điều 33, 45 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Xuân L từ12 tháng đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho người liên quan anh Phạm Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT và 01 máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.

XÉT THẤY

Bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Đỗ Xuân L phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng số: 57/VKS- HS, ngày 10 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đỗ Xuân L phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đây là vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác là sai, là vi phạm pháp luật nhưng do ham chơi, lười lao động muốn có tiền tiêu xài bất chính nên dẫn đến phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó cần được xử lý nghiêm minh trước pháp luật để giáo dục chính bị cáo và răn đe cho những người khác có ý định thực hiện hành vi tương tự.

Để cá thể hoá hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt.

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, không cótiền án, tiền sự.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tỉnh tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên khi lượng hình cần quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bảo đảm tính giáo dục và có tính răn đe, phòng ngừa chung, nhưng cũng xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình phạt.

Xét thấy bị cáo ham chơi, lười lao động, hành vị lạm dụng tín nhiệm chiếm chiếm đoạt tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo, nhưng cũng xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật tự giác cải tạo tốt, để trở thành người có ích cho xã hội. Bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra và về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là đúng quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giảiquyết.

Về vật chứng của vụ án:

01 xe mô-tô nhãn hiệu YAMAHA - EXCITER biển kiểm soát 12H1 –217.16, 01 giấy đăng ký xe, 01 giấy chứng minh thư nhân dân, 01 thẻ ATM ATM,01 chìa khóa xe, 01 mũ bảo hiểm, những vật chứng trên là của anh Trần Tiến D, sau khi điều tra làm rõ cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã trả cho anh Trần Tiến D.

01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT số IMEI 279807 và 01 máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG, số IMEI 28725/01, điện thoại và máy tính trên là của Phạm Văn Q do Q không biết chiếc xe mô to là do L phạm tội mà có nên trả lại cho Phạm Văn Q.

Đối với Phạm Văn Q giúp Đỗ Xuân L tìm nơi cầm cố xe và Từ Văn L2, Nguyễn Thành T, Đặng Thùy L (chủ quán hát Karaoke) nhận cầm cố xe của L, do không biết hành vi phạm tội của L nên không xử lý.

Đối với hành vi của Đỗ Xuân L chiếm đoạt 01 chiếc ví trong ví có khoảng 300.000đ, 01 đăng ký xe mô-tô, 01 chứng minh thư nhân dân, 01 thẻ AGRIBANK của Trần Tiến D, L chưa có tiền án, tiền sự xét thấy hành vi của Đỗ Xuân L chưa đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản nên Công an huyện H đã ra quyết định xử lý hành chính.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án và phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Xuân L phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 140; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46;các Điều 33, 45 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Xuân L 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 13 tháng 4 năm 2017.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho người liên quan anh Phạm Văn Q: 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT; 01 máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG.

(Theo biên bản giao, nhân vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H ngày 17 tháng 7 năm 2017).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Đỗ Xuân L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2017/HSST ngày 14/08/2017 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:57/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về