Bản án 57/2018/HS-ST ngày 04/05/2018 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PH, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 57/2018/HS-ST NGÀY 04/05/2018 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Trong ngày 04 tháng 05 năm 2018 tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35 /2018/HSST, ngày 20 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2018/QĐXXST-HS ngày 18/4/2018; đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Thị L - Tên gọi khác: Lan

Sinh ngày 01/8/1986, tại huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn

Nơi ĐKHKTT: Tổ 4, khu Th, phường C, thành phố C tỉnh Quảng Ninh.

Chỗ ở: Tổ 8, khu Tr, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không ;

Văn hóa: 9/12 ; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Họ tên bố: Hoàng Văn D; họ tên mẹ: Trần Thị L (Can)

Bị cáo có chồng và 01 con sinh năm 2011

Tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt quả tang ngày 18/10/2017, hiện tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

* Những người làm chứng:

- Chị Lô Thị M – sinh năm 1996; Nơi ĐKHKTT: Tổ 1, tổ dân số 7, thị trấn A L, huyện L: tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Chị Lò Thị Ph – sinh năm 1993; Nơi ĐKHKTT: Bản C, xã M, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

- Anh Nguyễn Văn Đ – sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTT: Tổ 4, khu H, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh.

- Anh Phạm Trung Th – sinh năm 1981; Nơi ĐKHKTT: Tổ 5, khu 2, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh.

- Anh Nguyễn Thanh T – sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT: Tổ 1, khu C, phường C thành phố C, tỉnh Quảng Ninh.

- Chị Đào Thị Ngh – sinh năm 1993; Nơi ĐKHKTT: Tổ , khu Tr, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh.

- Ông Trần Duy D – sinh năm 1957; Nơi ĐKHKTT: Tổ 8, khu Tr, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh.

- Ông Phạm Công Tr – sinh năm 1950; Nơi ĐKHKTT: Tổ 2, khu Tr, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh.

- Bà Trần Thị C – sinh năm 1957; Nơi ĐKHKTT: Tổ 7, khu Tr phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh.

Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối tháng 6 năm 2017, Hoàng Thị L thuê lại của chị La Thị H một phần căn nhà ở tổ 8, khu Tr, phường C, thành phố C, rồi ngăn thành 03 phòng (không đánh số), để kinh doanh tẩm quất và tổ chức mua, bán dâm. Đến ngày 09/10/2017, chị Lô Thị M đến xin làm nhân viên tẩm quất và bán dâm tại quán. L và chị M thỏa thuận: L cho chị M ăn, ở tại quán không mất tiền. Nếu có khách tẩm quất, Lả sẽ thu 150.000 đồng/người/lượt, trả cho chị M 80.000 đồng, L hưởng 70.000 đồng. Nếu có khách mua dâm, L sẽ thu của khách 200.000 đồng/người/lượt, trả cho chị M 100.000 đồng, L hưởng 100.000 đồng, L thanh toán tiền cho chị M sau khi chị M tẩm quất hoặc bán dâm xong.

Trong khoảng thời gian từ ngày 15/10/2017 đến ngày 17/10/2017, L đã nhiều lần bố trí cho chị Lô Thị M bán dâm cho khách tại quán của L. Trong đó:

+ Ngày 15/10/2017, Lả bố trí cho chị M bán dâm cho khách 02 lần;

+ Ngày 16/10/2017, Lả bố trí cho chị M bán dâm cho khách 02 lần;

+ Ngày 17/10/2017, L bố trí cho chị M bán dâm cho khách không quen biết 02 lần và 01 lần bán dâm cho anh Nguyễn Thanh T tại phòng thứ ba (từ ngoài vào).

Đến khoảng 14 giờ ngày 18/10/2017, anh Phạm Trung Th và anh Nguyễn Văn Đ đến quán của L để mua dâm. Anh Th gặp và đặt vấn đề với L bố trí cho 2 người bándâm. L nói giá 200.000  đồng/người, anh Th đồng ý. Do tại quán chỉ có chị M, nên L gọi điện thoại cho chị Đào Thị Ngh, là chủ quán tẩm quất ở tổ 9, khu Tr, phường C, thành phố C (gần quán của L), bảo chị Ngh cho một nhân viên đến quán của L, nhưng chị Ngh nói nhân viên xấu, nên không cho nhân viên đi. Trong khi L và chị Ngh nói chuyện điện thoại, chị Lò Thị Ph (tên khác là Trang là nhân viên tại quán của chị Ngh) ngồi gần đấy, nghe thấy việc L đang cần nhân viên, nên chị Ph đã tự đi sang quán của L để bán dâm.

Khi chị Phượng đến, L bảo chị Ph bán dâm cho khách, chị Ph đồng ý, L chỉ chỗ để bao cao su ở góc nhà cho Ph lấy sử dụng. Sau đó, Lả bố trí cho chị M bán dâm cho anh Th tại phòng thứ ba, chị Ph bán dâm cho anh Đ tại phòng thứ hai. Anh Th đã đưa cho Lả 400.000 đồng. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi các chị Minh và Phượng đang bán dâm cho các anh Thành và Đảm, thì bị Công an thành phố Cẩm Phả phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng: thu tại phòng thứ hai 01 bao cao su đã qua sử dụng và vỏ bao nhãn hiệu Vip; thu tại phòng thứ ba 01 bao cao su chưa sử dụng; thu giữ của Hoàng Thị Lả 400.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, gắn sim số 01626.422.486. (Bút lục số 22).

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng Thị L tại tổ 8, khu Tr, phường C, thành phố, thu giữ tại góc tường phía tây 01 túi nilon mầu trắng, bên trong có 09 bao cao su nhãn hiệu Vip mầu bạc, 02 bao cao su nhãn hiệu Vip mầu xanh, 04 bao cao su nhãn hiệu Romax mầu vàng (đều chưa sử dụng) (Bút lục số 29).

Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Thị L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng mô tả, bị cáo trình bày nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội là do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bị cáo có biết việc chứa mại dâm là vi phạm pháp luật nhưng do hiểu biết hạn chế nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.

Người làm chứng là chị Lô Thị M trong quá trình điều tra có lời khai xác nhận chị đến quán tẩm quất mát xa của Hoàng Thị L tức L làm thuê, từ ngày 15/10/2017 L đã bố trí cho chị bán dâm cho khách 07 lần và ngày 18/10/2017 khoảng 14 giờ, khi có anh Thvà anh Đ đến quán, Lả đã bố trí cho chị bán dâm cho anh Th còn chị Ph bán dâm cho anh Đ, khi chị và anh Th đang thực hiện hành vi quan hệ tình dục thì bị bắt quả tang. (BL 89-94)

Người làm chứng chị Lò Thị Ph tức Tr, trong quá trình điều tra có lời khai: Chị là nhân viên làm thuê tại quán của chị Đào Thị Ngh, khoảng 14 giờ ngày 18/10/2017 chị nghe chị Ngh nói chuyện điện thoại với Hoàng Thị L, chị biết L gọi điện cho chị Ngh để chị Ngh điều nhân viên từ quán của chị Ngh sang, chị Ngh có nói là nhân viên bên này xấu sợ khách chê nên không nhận lời, sau đó chị Ngh đi chợ, chị đã đi sang quán của Hoàng Thị L. Khi sang đến quán chị thấy chị M đang ngồi uống nước cùng anh Th và anh Đ, L nói là chờ một chút để L bố trí phòng, Lả bố trí cho chị và anh Đ đi vào phòng số 2 tính từ cầu thang vào và chị M và anh Th vào phòng số 3,trước khi chị vào phòng L chỉ cho chị chỗ lấy bao cao su thì chị hiểu là chị được L bố trí bán dâm cho anh Đ, khi chị và anh Đ đang quan hệ tình dục thì bị các anh công an kiểm tra và thu trong phòng của chị 01 vỏ bao cao su và 01 bao cao su đã qua sử dụng là của chị và anh Đ sử dụng trong khi quan hệ tình dục. (Bl: 99-108).

Lời khai của người làm chứng là anh Phạm Trung Th và anh Nguyễn Văn Đ đều khai về việc khoảng 14 giờ ngày 18/10/2017 các anh đến quán của Hoàng Thị L để mua dâm, anh Th đã trả cho L 400.000đồng, khi các anh đang cùng hai nhân viên do L bố trí thực hiện hành vi quan hệ tình dục tại 02 phòng của quán thì bị bắt quả tang. (BL111- 117).

Người làm chứng khác là chị Đào Thị Ngh trong quá trình điều tra xác nhận giữa chị và bị cáo Hoàng Thị L có thỏa thuận việc mượn nhân viên của nhau nhưng là để tẩm quất mát xa theo yêu cầu của khách chứ không thỏa thuận cho nhân viên bán dâm. Ngày 18/10/2017 L có gọi điện bảo cho L mượn nhân viên, do mấy lần nhân viên của chị sang đều bị chê xấu nên chị không nhận lời, khi nói chuyện điện thoại với L thì có Ph là nhân viên của chị ngồi gần đó hỏi, chị trả lời là Lả hỏi mượn nhân viên, chị không bảo Ph sang quán của L, Ph sang quán của L khi nào chị không biết.(Bl 75-81).

Người làm chứng là anh Phạm Thanh T trong quá trình điều tra khai có lời khai thể hiện nội dung: khoảng 0 giờ ngày 18/10/2017 anh T vào quán đèn mờ hỏi chủ quán mua dâm, chủ quán đồng ý và nói giá mua dâm là 200.000đồng, anh được chủ quán bố trí cho anh và 01 nhân viên nữ vào 01 phòng phía trong quán, sau khi quan hệ tình dục anh trả tiền cho chủ quán, chủ quán có hỏi anh có thuê xe ôm về không, anh đã nhờ chủ quán lấy xe máy chở về đến khu vực Cửa hàng điện máy xanh thuộc phường Cẩm Tây, anh có cho chủ quán số điện thoại của anh. Sau này anh Tùng nhận dạng xác định chủ quán là Hoàng Thị L, nhân viên bán dâm là Lô Thị M, quán có địa chỉ số nhà 634 thuộc tổ 8 khu Tr phường C, và phòng anh Thực hiện hành vi mau bán dâm là phòng thứ theo sơ đồ hiện trường (BL 125-134).

Ngoài ra trong hồ sơ vụ án có các tài liệu khác: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (Bl 22-27); Biên bản khám xét (Bl 29), Sơ đồ hiện trường (Bl 35), Bản ảnh hiện trường (BL 36-50), nội dung các tài liệu này phù hợp thống nhất nhau, phù hợp lời khai của của người làm chứng khác là anh Trần Duy D, anh Phạm Công Tr là người chứng kiến công an kiểm tra và bắt quả tang hành vi mua bán dâm hồi 14 giờ ngày 18/10/2017. Lời khai của người làm chứng La Thị H và Trần Thị C có nội dung xác nhận L là người thuê lại của chị La Thị H một phần căn nhà số 634 thuộc tổ 8 khu Tr phường C thành phố C.

Tại bản cáo trạng số 45 KSĐT-HS, ngày 19/03/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo Hoàng Thị L về tội “Chứa mại dâm", theo điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa Kiểm sát viên trình bày luận tội đưa ra các chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đề nghị áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51, Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Hoàng Thị L từ 5 năm đến 5 năm 6 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt. Ngoài ra có quan điểm xử lý vật chứng đã thu giữ; truy thu của bị cáo 700.000đồng là tiền bị cáo thu được từ những lần bố trí cho chị M bán dâm cho khách từ ngày 15/10/2017 đến trước khi bị bắt quả tang để nộp quỹ nhà nước.

Tại phần tranh luận, bị cáo Hoàng Thị L không tranh luận với kết luận của kiểm sát viên, Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã đượcthẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Thị L khẳng định việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là không oan sai, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là do hoàn cảnh khó khăn và do hiểu biết kém. Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo về việc từ ngày 15/10/2017 đến ngày 00 giờ ngày 18/10/2017 đã bố trí cho chị Lô Thị M nhiều lần bán dâm cho khách ngay tại quán của L, đến 14 giờ ngày 18/10/2017 bị cáo đã bố trí cho chị Lô Thị M bán dâm cho anh Phạm Trung Th, chị Lò Thị Ph bán dâm cho anh Nguyễn Văn Đ và thu của anh Th 400.000đồng bị bắt quả tang thu giữ vật chứng. Hội đồng xét xử xét thấy lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo phù hợp lời khai của người làm chứng là khách mua dâm: anh Nguyễn Thanh T, anh Phạm Trung Th, anh Nguyễn Văn Đ; phù hợp lời khai của người bán dâm là Lô Thị M, Lò Thị Ph; Ngoài ra phù hợp các tài liệu khác có hồ sơ vụ án.

Từ phân tích trên Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 15/10/2017 đến ngày 18/10/2017, tại ngôi nhà số 634 tại tổ 8 khu Tr phường C thành phố Cẩm Phả, Hoàng Thị L đã nhiều lần bố trí cho chị Lô Thị M và chị Lò Thị Ph bán dâm cho khách. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Chứa mại dâm” thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần. Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 tội “Chứa mại dâm” (Điều 327) có khung phạt nhẹ hơn so với quy định Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 264), nên cáo trạng, kết luận của kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị truy tố bị cáo với tội danh “Chứa mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ và đúng quy định.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trật tự công cộng, trật tự xã hội, vi phạm các quy định của nhà nước về phòng chống tệ nạn mại dâm, vi phạm đạo đức xã hội, trái thuần phong mỹ tục trong nhân dân, mại dâm còn là nguyên nhân lây truyền một số căn bệnh nguy hiểm khác. Nên pháp luật nhà nước ta xử lý nghiêm khắc đối với loại tội phạm này. Bị cáo là người đủ nhận thức để biết pháp luật ngăn cấm nhưng vì mục đích kiếm tiền bị cáo đã bất chấp cố tình thực hiện và thực hiện nhiều lần. Vì vậy cần thiết xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo phạm tội lần đầu, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, bố bị cáo là người có công với cách mạng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy có giảm nhẹ đến đâu thì cũng phải bắt bị cáo cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: 16 bao cao su, không có giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy; Tịch thu số tiền 400.000đồng và truy thu của bị cáo 700.000đồng là số tiền bị cáo được ăn chia khi bố trí cho chị Lô Thị M bán dâm cho khách từ ngày 15/10/2017 đến trước khi bị bắt quả tang, để nộp ngân sách nhà nước; Chiếc điện thoại OPPO, xác định bị cáo đã dùng vào việc phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật

[9] Đối với các anh Phạm Trung Th, Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Thanh T, có hành vi mua dâm; các chị Lô Thị M và Lò Thị Ph, có hành vi bán dâm, Công an thành phố Cẩm Phả đã xử phạt hành chính là phù hợp, không đề cập giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Thị L phạm tội “Chứa mại dâm”.

Xử phạt: Hoàng Thị L 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 18/10/2017.

Áp dụng: điểm a,b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a,b,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 12 chiếc bao cao su nhãn hiệu Vip, 04 chiếc bao cao su nhãn hiệu Romax chưa sử dụng; Tịch thu số tiền400.000đồng (bốn trăm nghìn đồng) và truy thu  của bị cáo số tiền 700.000đồng (bảy trăm nghìn đồng) nộp quỹ nhà nước; Tịch thu 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Oppo màu vàng đã cũ, lắp sim Viettel có số seri: 8984 0480 0882 8112 452 nộp quỹ nhà nước.

Các khoản trên theo Biên bản giao nhận vật chứng số 87/BB-THA ngày 22/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả tỉnh Quảng Ninh.

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Hoàng Thị L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo, báo cho biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

425
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2018/HS-ST ngày 04/05/2018 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:57/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về