Bản án 57/2019/HSST ngày 17/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 57/2019/HSST NGÀY 17/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân P, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 45/2019/HSST ngày 04 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2019/QĐXXST-HS ngày 03/5/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Di L; sinh năm 1991, tại: Quảng Ngãi; trú tại: Khu D cư 13, thôn 3, xã Đ, huyện M, tỉnh Q; chỗ ở: Không nơi ở nhất định; nghề nghiệp: Thợ điện lạnh; trình độ học vấn: 07/12; giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1967 và bà Bùi Thị N, sinh năm 1970; vợ: Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1995, và con: 02 người, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày: 19/01/2019 – Có mặt

- Bị hại:

1/ Anh Phạm Đinh Việt A, sinh năm 1980; trú tại: 169/6B đường Phan T, quận T, Thành phố Đ – Vắng mặt.

2/ Anh Huỳnh Ngọc D, sinh năm 1992; trú tại: 108 Kênh 19/5, phường T, quận Tân P, Thành phố H – Vắng mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần kỹ thuật Công nghệ Việt T

Địa chỉ: 108 Kênh 19/5, phường T, quận Tân P, Thành phố H

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Minh T – Chức vụ: Giám đốc

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ 30 phút ngày 18/01/2019, Nguyễn Di L đến uống cà phê tại số 92 Kênh 19/5B, phường T, quận Tân P để hỏi mượn tiền bạn nhưng không được. Lúc này, L nhìn thấy anh Phạm Đinh Việt A mở cửa cổng vào công ty Việt T tại số 108 Kênh 19/5B, phường T, quận Tân P nên nảy sinh ý định vào trong Công ty trộm cắp tài sản, L liền đi bộ vào trong thì thấy anh Việt A đi lên lầu, cửa cuốn dưới tầng hầm mở nên L trốn vào trong nhà bếp để quan sát. Khoảng 10 phút sau, thấy anh Việt A xuống dưới sân lấy xe đi nên L đi lên tầng trệt vào phòng họp tìm tài sản để trộm cắp thì phát hiện 01 máy tính xách tay hiệu HP15AC104TX core I7 và 01 túi xách màu đen xám đang để trên bàn họp, liền lén đến dùng tay phải lấy trộm máy tính xách tay rồi bỏ vào túi xách, bên trong túi xách có 01 hộ chiếu mang tên Phạm Đinh Việt A, sau đó L đi xuống tầng hầm tiếp tục lấy trộm 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 77D1-094.90 của anh Huỳnh Ngọc D rồi để túi xách đựng máy tính xách tay vừa trộm được lên baga xe đẩy bộ ra ngoài tẩu thoát. Khi đến trước số 100 Kênh 19/5, phường T, quận Tân P thì bị Công an phường T kiểm tra bắt quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Di L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên Theo bản kết luận định giá tài sản số 45/KL-HDĐGTS-TTHS ngày 22/02/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận T, 01 máy tính xách tay hiệu HP15AC104TX core I7 trị giá 5.000.000 đồng; 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 77D1-094.90, số máy 5C63648874, số khung C630CY648822 trị giá 13.200.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 18.200.000 đồng.

Vật chứng:

- 01 máy tính xách tay hiệu HP15AC104TX core I7; 01 túi xách màu đen xám; 01 hộ chiếu mang tên Phạm Đinh Việt A, là tài sản L trộm cắp. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Phạm Đinh Việt A.

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 77D1-094.90, số máy 5C63648874, số khung C630CY648822, là tài sản L trộm cắp. Qua xác minh, xe trên do chị Nguyễn Thị Thu Ngân đứng tên sở hữu. Cuối năm 2017 chị N bán xe cho một người mua bán xe cũ. Ngày 07/02/2018 anh Huỳnh Ngọc D mua lại xe gắn máy trên từ cửa hàng mua bán xe gắn máy Hoàng Mai, địa chỉ thôn Kiều A, xã C, huyện P, tỉnh B. Ngày 12/3/2019 chị N và anh Huỳnh Ngọc D đã làm hợp đồng mua bán xe trên. Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh D.

- 01 điện thoại di động hiệu Coolpad, số Imel 869334040038666, L dùng liên lạc cá nhân;

- 01 áo sơ mi tay dài, màu đen; 01 quần lửng màu xám, là trang phục L mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp.

Ti bản cáo trạng số 54/CT-VKSQ.TP ngày 29 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân P đã truy tố bị cáo Nguyễn Di L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên Tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Tân P giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Di L từ 09 (chín) tháng đến 15 (Mười lăm) tháng tù.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý phần trách nhiệm dân sự và vật chứng.

- Bị cáo Nguyễn Di L đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như trên, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 18/01/2019 Nguyễn Di L ngồi uống cà phê tại số 92 Kênh 19/5B, phường T, quận Tân P thì nhìn thấy anh Phạm Đinh Việt A mở cửa vào công ty Cổ phần kỹ thuật Công nghệ Việt Ttại số 108 Kênh 19/5B, phường T, quận Tân P nên nảy sinh ý định vào trong công ty trộm cắp tài sản, L đi bộ vào trong thì thấy anh Việt A đi lên lầu, cửa cuốn dưới tầng hầm mở nên L trốn vào trong nhà bếp để quan sát. Khoảng 10 phút sau, thấy anh Việt A xuống dưới xe lấy xe đi nên L đi lên tầng trệt vào phòng họp tìm tài sản trộm cắp thì phát hiện 01 máy tính xách tay hiệu HP15AC104TX core I7 và 01 túi xách màu đen xám đang để trên bàn họp, L lấy máy tính xách tay bỏ vào túi xách, sau đó L xuống tầng hầm lấy trộm 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 77D1-094.90 của anh Huỳnh Ngọc D rồi để túi xách lên baga xe đẩy bộ ra ngoài tẩu thoát. Khi đến trước nhà số 100 Kênh 19/5, phường T, quận Tân P thì bị Công an phường T kiểm tra bắt quả tang.

Vì vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Di L phạm tội “Trộm cắp tài sản”, như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại, lén lút chiếm đoạt 01 máy tính xách tay HP và 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, qua định giá có tổng giá trị là 18.200.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân P truy tố bị cáo Nguyễn Di L theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công D, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nhưng không muốn bỏ công sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên cũng xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm h, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt là 01 máy tính xách tay hiệu HP15AC104TX core I7 và 01 túi xách màu đen xám cùng 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 77D1-094.90, đã thu hồi trả cho người bị hại, anh Phạm Đinh Việt A và anh Huỳnh Ngọc D đã nhận lại và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý phần trách nhiệm dân sự.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 máy tính xách tay hiệu HP15AC104TX core I7; 01 túi xách màu đen xám; 01 hộ chiếu mang tên Phạm Đinh Việt A, là tài sản L trộm cắp. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Phạm Đinh Việt A nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 77D1-094.90, số máy 5C63648874, số khung C630CY648822, là tài sản L trộm cắp. Qua xác minh, xe trên do chị Nguyễn Thị Thu Ngân đứng tên sở hữu. Cuối năm 2017 chị N bán xe cho một người mua bán xe cũ. Ngày 07/02/2018 anh Huỳnh Ngọc D mua lại xe gắn máy trên từ cửa hàng mua bán xe gắn máy Hoàng Mai, địa chỉ thôn Kiều A, xã C, huyện P, tỉnh B xe trên. Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh D, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- 01 điện thoại di động hiệu Coolpad, số Imel 869334040038666, bị cáo L khai dùng liên lạc cá nhân nên trả lại cho bị cáo Nguyễn Di L theo qui định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 áo sơ mi tay dài, màu đen; 01 quần lửng màu xám, là trang phục L mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp, tại phiên tòa hôm nay bị cáo không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy theo qui định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

[1] Khoản 1 Điều 173; điểm h, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[2] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Di L phạm tội "Trộm cắp tài sản".

[3] Xử phạt bị cáo Nguyễn Di L 09 (Chín) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 19 tháng 01 năm 2019.

[4] Về trách nhiệm Dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Trả cho bị cáo Nguyễn Di L 01 (Một) điện thoại di động hiệu COOLPAD, màu xanh đen, số Imel 1: 869334040038666; số Imel 2: 869334040017751.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) áo sơ mi tay dài, màu đen; 01 (Một) quần lửng màu xám (Vật chứng hiện đang nhập kho theo Phiếu nhập kho vật chứng số 76/PNK ngày 28/01/2019 của Công an quận Tân P)

[6] Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Di L nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Bị cáo Nguyễn Di L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dânân thành phố H. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự, thì người được thi hành án Dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2019/HSST ngày 17/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:57/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về