Bản án 58/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về ly hôn giữa chị O và anh V

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 58/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ O VÀ ANH V

Ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 278/2018/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2018 về việc “ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kiều O; sinh năm 1995; nơi cư trú: Số X đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần V; sinh năm 1990; cư trú tại: Số X đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 19/7/2018 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kiều O trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là anh Trần V kết hôn năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức cưới theo phong tục. Vợ chồng sống chung hạnh phúc được 06 tháng thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp. Anh V không quan tâm chăm sóc vợ con. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, chị O xin được ly hôn với anh V.

Về con chung: Chị O khai có 01 người con chung là cháu Trần Ngọc Nhã H, sinh ngày 28/9/2014, chị O có nguyện vọng nuôi cháu H và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận; nợ chung: Chị O khai không có.

Tại bản tự khai ngày 17/10/2018 bị đơn anh Trần V trình bày: Anh công nhận tình trạng hôn nhân, con chung, tài sản và nợ chung như chị O trình bày, anh không đồng ý ly hôn với chị O vì cho rằng mầu thuẫn vợ chồng tuy có nhưng chưa đến mức trầm trọng. Hôn nhân có thể hàn gắn. Nếu Tòa án cho vợ chồng ly hôn anh V có nguyện vọng nuôi cháu H và không yêu cầu chị O cấp dưỡng nuôi con. Anh V đề nghị giải quyết vắng mặt.

Tại phiên tòa chị O giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với anh V, yêu cầu được nuôi cháu H và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử tuân thủ đúng theo trình tự của phiên tòa sơ thẩm quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên Thẩm phán còn vi phạm về thời hạn thụ lý vụ án đề nghị khắc phục.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị O và anh V được ly hôn. Giao con chung là cháu Trần Ngọc Nhã H, sinh ngày 28/9/2014 cho chị O nuôi dưỡng. Anh V không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Giữa chị Nguyễn Thị Kiều O và anh Trần V kết hôn năm 2014, có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, chủ yếu là tính tình không hợp. Xét mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được do vậy cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị O, cho chị O và anh V được ly hôn.

[2]. Về con chung: Cháu Trần Ngọc Nhã H, sinh ngày 28/9/2014, anh V và chị O đều có nguyện vọng nuôi cháu H. Xét cháu H tại thời điểm xét xử mới hơn 04 tuổi do vậy cần giao cho chị O nuôi dưỡng là phù hợp, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con.

[3]. Về tài sản chung: Các đương sự tự thỏa thuận; nợ chung: Các đương sự khai không có nên không xem xét.

[4]. Về án phí: Chị O chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 58 Luật hôn nhân và gia đìnhNghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, 1/ Về quan hệ hôn nhân:

Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kiều O và anh Trần V.

2/ Về con chung: Giao cháu Trần Ngọc Nhã H, sinh ngày 28/9/2014 cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng anh V không phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền thay đổi người nuôi con, quyền thăm nom con sau khi ly hôn và thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo Luật Hôn nhân và Gia đình.

3/ Về án phí:

Chị Nguyễn Thị Kiều O phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí HNGĐ sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/ 0002509 ngày 01/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Chị O đã nộp đủ tiền án phí.

Trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án nguyên đơn có quyền kháng cáo, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về ly hôn giữa chị O và anh V

Số hiệu:58/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về